Kỷ niệm 70 năm ký kết Hiệp định Geneva (1954 - 2024) - Mốc son lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam

14:50, 19/07/2024

Trải qua 75 ngày (từ ngày 8-5 đến 21-7-1954) đàm phán căng thẳng và phức tạp với 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp định Geneva đã được ký kết. Đây là quá trình đấu trí, đấu lực thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của ngoại giao Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Con đường đến Hội nghị Geneva

Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Hiệp định Geneva là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết và thực thi, qua đó khẳng định vị thế quốc gia độc lập và có chủ quyền của Việt Nam trên trường quốc tế, là dấu mốc lịch sử trong nền ngoại giao Việt Nam. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu vệt bài về Hiệp định Geneva-mốc son lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Quang cảnh phiên khai mạc Hội nghị Geneva, ngày 8-5-1954. Ảnh tư liệu
Quang cảnh phiên khai mạc Hội nghị Geneva, ngày 8-5-1954. Ảnh tư liệu

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), từ ngày 8-5 đến 21-7-1954, Hội nghị Geneva bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết. Đây là thắng lợi to lớn, kết thúc một chặng đường trong quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ của dân tộc Việt Nam để đi tới độc lập, tự do.

Giải quyết “vấn đề xung đột Việt-Pháp” trên cơ sở thương lượng hòa bình để tránh một cuộc chiến tranh đổ máu là chủ trương xuyên suốt của Đảng và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngay từ khi Pháp trở lại xâm lược nước ta (ngày 23-9-1945), Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nỗ lực tìm mọi cách nhằm cứu vãn “một nền hòa bình mong manh”, kiên trì đàm phán, nhân nhượng. Nhưng do dã tâm xâm lược, bản chất hiếu chiến của thực dân Pháp nên cuộc chiến tranh đã nổ ra trên toàn cõi Việt Nam.

Dù cuộc chiến tranh đã nổ ra trên phạm vi toàn quốc song với mong muốn vãn hồi hòa bình, thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc tiếp xúc với đại diện Chính phủ Pháp, cũng như nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, nhưng không được phía Pháp đáp ứng. Dân tộc Việt Nam hiểu rằng, sẽ không thể có thắng lợi trên bàn đàm phán nếu như không có thắng lợi quân sự trên chiến trường. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên cầm súng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, với tinh thần tự lực, tự cường, chiến đấu giành thắng lợi từng bước và tiến lên giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, như Việt Bắc Thu-Đông (1947), Biên giới (1950), Hòa Bình (1951-1952), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953)... đẩy thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào tình thế bị động, bế tắc và phải lệ thuộc nhiều vào viện trợ của Mỹ để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

Tháng 5-1953, trước những thất bại trên chiến trường ở Việt Nam và Đông Dương, Chính phủ Pháp cử tướng Navarre sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hy vọng sớm có thể “uốn nắn lại tình hình” và tìm ra “một lối thoát trong danh dự”, đưa nước Pháp ra khỏi tình thế bế tắc của cuộc chiến tranh Đông Dương. Navarre sang Đông Dương với bản kế hoạch đầy tham vọng sẽ giành thắng lợi trong vòng 18 tháng, buộc Chính phủ ta phải đàm phán trong tình thế có lợi cho Pháp. Nếu không chấp nhận, quân Pháp sẽ tiến công tiêu diệt chủ lực của ta. Đây là kế hoạch chiến lược, thể hiện sự tập trung cố gắng cao nhất của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

Để đập tan cố gắng cao nhất, cũng là cố gắng cuối cùng thực dân Pháp với sự giúp sức của Mỹ, tạo cơ sở cho đấu tranh ngoại giao, Trung ương Đảng quyết định mở Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Theo kế hoạch, quân và dân ta mở các hướng tiến công lên Tây Bắc, sang Hạ Lào, Trung Lào, Thượng Lào và Tây Nguyên, buộc Navarre phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến trường Đông Dương để đối phó, làm cho kế hoạch tập trung lực lượng cơ động đến Thu Đông năm 1954 tiến công Bắc Bộ đánh đòn quyết định của Navarre bị thất bại hoàn toàn. Mặc dù vậy, với bản chất ngoan cố và còn hy vọng vào sự viện trợ của Mỹ, thực dân Pháp đã điều chỉnh kế hoạch, chọn Điện Biên Phủ để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, sẵn sàng “nghiền nát” chủ lực của đối phương.

Trước tình hình đó, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp bàn, nghe Tổng Quân ủy báo cáo quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến. Điện Biên Phủ trở thành “điểm hẹn lịch sử”, “trận quyết chiến chiến lược” giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược trên con đường đi tới bàn đàm phán hòa bình để kết thúc chiến tranh ở Việt Nam.

Cũng vào thời điểm này, tình hình thế giới đã xuất hiện các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương muốn giải quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực, nhất là việc hiệp định đình chiến tại Triều Tiên được ký kết đã tác động mạnh mẽ đến tình hình cuộc chiến tranh ở Đông Dương, một số ít giới cầm quyền Pháp đã nghĩ đến việc tìm lối thoát bằng con đường đàm phán. Trong bối cảnh đó, dù kiên quyết chống lại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nhưng Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sẵn sàng thương lượng để giải quyết hòa bình về vấn đề Việt Nam.

Ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp thu ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam”.

Tiếp đó, ngày 19-12-1953, nhân kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhắc lại lập trường của Việt Nam trong lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Nếu Chính phủ Pháp muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và muốn giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng sẵn sàng nói chuyện”. Thế nhưng, Pháp vẫn còn hy vọng vào một thắng lợi quân sự ở Điện Biên Phủ để buộc đối phương phải chấp nhận theo những điều khoản có lợi cho Pháp nên các đề nghị trên không được đáp ứng.

Trong khi cả quân ta và Pháp đang chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, tháng 1-1954, Ngoại trưởng 4 nước gồm: Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp đã họp tại Berlin và quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Geneva để giải quyết hai vấn đề: Bàn về giải pháp chính trị cho vấn đề Triều Tiên và giải quyết vấn đề chiến tranh ở Đông Dương. Ngày 26-4-1954, Hội nghị Geneva bắt đầu họp.

Trong thời gian hội nghị bàn về Triều Tiên, quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ lâm vào nguy khốn. Hàng loạt cứ điểm ở phân khu Bắc và khu Đông Mường Thanh bị quân chủ lực đối phương tiêu diệt. Ngày 1-5-1954, khu trung tâm bắt đầu bị tiến công dồn dập, đến chiều 7-5-1954, toàn bộ quân Pháp ở Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra đầu hàng.

Tin thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ từ Đông Dương dội về đã làm thay đổi căn bản không khí hội nghị, vấn đề Đông Dương ngay sau đó được đưa lên bàn nghị sự. Điều này cho thấy, Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa chính trị vô cùng to lớn, tạo ra thế mạnh cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên bàn đàm phán. Trước đó, ngày 4-5-1954, theo lời mời của Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Trung Quốc, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm trưởng đoàn đến Geneva tham dự hội nghị.

Một ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 8-5-1954, Hội nghị Geneva bắt đầu bàn về vấn đề Việt Nam và Đông Dương, phái đoàn Việt Nam do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn bước vào hội nghị với tư thế ngẩng cao đầu, tư thế của một dân tộc chiến thắng và chính nghĩa.

Trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam

Trải qua 75 ngày (từ ngày 8-5 đến 21-7-1954) đàm phán căng thẳng và phức tạp với 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp định Geneva đã được ký kết. Đây là quá trình đấu trí, đấu lực thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của ngoại giao Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.Hội nghị Geneva bắt đầu họp từ ngày 26-4-1954 bàn về giải pháp chính trị ở Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả và đặc biệt là tin Chiến thắng Điện Biên Phủ truyền đến hội nghị, nên từ ngày 8-5-1954, Hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Tham gia hội nghị gồm 9 thành viên: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc gia Việt Nam (thuộc Liên hiệp Pháp), Vương quốc Campuchia, Vương quốc Lào. Đại diện Pathet Lào và Khmer Issarak có đến Geneva nhưng không được các nước lớn đồng ý cho tham dự. Đồng Chủ tịch hội nghị là Anthony Eden-Ngoại trưởng Anh và Vyacheslav Molotov-Ngoại trưởng Liên Xô thay phiên nhau làm chủ tọa. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn.

Các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tham dự Hội nghị Geneva năm 1954. Ảnh tư liệu.
Các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tham dự Hội nghị Geneva năm 1954. Ảnh tư liệu.

Là hội nghị bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, nhưng các nước dự hội nghị đều có lợi ích, chiến lược và mục tiêu khác nhau. Đối với đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa, lập trường cơ bản là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ; thực hiện dựa theo “phương châm đấu tranh là vừa đánh, vừa nói chuyện; chủ động cả quân sự lẫn ngoại giao”.

Quá trình diễn ra hội nghị qua 3 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1 (từ ngày 8-5 đến 19-6-1954): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và vấn đề Đông Dương, tranh luận các vấn đề lớn liên quan đến mục tiêu của hội nghị. Trong phiên họp đầu tiên (ngày 8-5), đoàn Pháp trình bày lập trường của mình trên cơ sở chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập đến giải pháp chính trị và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi Việt Nam. Đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn yêu cầu phải có sự tham dự của đại diện Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia.

Trong phiên họp ngày 10-5, Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa phát biểu, đưa ra lập trường gồm 8 điểm với nội dung chủ yếu là: Yêu cầu đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Lập trường 8 điểm của Việt Nam được Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ là giải quyết đồng thời cả hai vấn đề chính trị và quân sự, giải quyết đồng thời cả 3 vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia.

Phiên họp thứ ba, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai trình bày lập trường tổng quát của Trung Quốc, ủng hộ 8 điểm của Việt Nam Dân chủ cộng hòa; đồng thời nêu hai điều kiện để lập lại hòa bình ở Đông Dương: Pháp chấm dứt chiến tranh thực dân, Mỹ chấm dứt can thiệp vào cuộc xung đột ở Đông Dương. Đáng chú ý, trong phiên họp thứ tư, Trưởng đoàn Liên Xô Vyacheslav Molotov ủng hộ kế hoạch của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng và đề nghị lấy hai phương án của Pháp và của Việt Nam Dân chủ cộng hòa làm cơ sở thảo luận. Tuy nhiên, cho tới ngày 19-5, hội nghị vẫn chưa đi tới thỏa thuận về chương trình nghị sự.

Sau 4 phiên mở rộng, Chủ tịch hội nghị Anthony Eden yêu cầu họp hẹp. Trưởng đoàn Liên Xô đề nghị vấn đề quân sự, chính trị và vấn đề 3 nước sẽ bàn song song. Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý. Anh và Pháp tán thành, Mỹ đành phải chấp nhận. Ngày 25-5, trong phiên họp hẹp, đồng chí Phạm Văn Đồng đưa ra hai nguyên tắc cho vấn đề đình chiến: Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương; điều chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh tương đối rộng lớn, thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt động kinh tế. Đại diện các bộ tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới hội nghị xem xét và thông qua.

Đến phiên họp thứ bảy (ngày 27-5), đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ cộng hòa làm cơ sở thảo luận, đề nghị đại diện của hai bên gặp nhau ở Geneva để bàn việc chia ranh giới khu vực tập trung quân ở Đông Dương. Cùng ngày, đoàn Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn đề quân sự như: Ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc ở 3 nước Đông Dương, thành lập Ủy ban kiểm soát quốc tế gồm các nước trung lập nhưng chưa đề cập tới giải pháp về mặt chính trị.

Ngày 29-5, sau các phiên họp toàn thể và cấp trưởng đoàn, Hội nghị Geneva ra quyết định: Ngừng bắn toàn diện và đồng thời đại diện hai bên gặp nhau ở Geneva để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến, bắt đầu bằng việc phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.

Nhìn chung, do lập trường giữa các đoàn có khoảng cách khá lớn, chủ yếu do lập trường hiếu chiến của các nước phương Tây, làm cho cuộc đàm phán tiến triển chậm. Đến ngày 19-6, Pierre Mendès France lên cầm quyền đã hứa với Quốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, nếu không sẽ từ chức. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá vỡ thế bế tắc, thúc đẩy đàm phán tiến triển.

Giai đoạn 2 (từ ngày 20-6 đến 10-7): Trong giai đoạn này, hầu hết các trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở lại. Các quyền trưởng đoàn tổ chức những cuộc họp hẹp và họp Tiểu ban Quân sự Việt-Pháp bàn vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh và việc đi lại giữa hai miền. Trong giai đoạn này, bên ngoài hội nghị đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đáng chú ý là những hoạt động tiếp xúc của các trưởng đoàn, những cuộc gặp gỡ tại các thủ đô liên quan. Nhìn chung, các cuộc họp hẹp ở Geneva trong giai đoạn này không có tiến triển gì đặc biệt.

Giai đoạn 3 (từ ngày 11 đến 21-7): Trong giai đoạn này, hội nghị diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu đàm phán, thỏa thuận về phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm thời; thông qua các văn kiện, kể cả các điều khoản thi hành hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc hội nghị.

Ngày 11-7, các cuộc đàm phán cấp bộ trưởng đã được nối lại để giải quyết một loạt vấn đề, căng thẳng nhất vẫn là vấn đề giới tuyến. Pháp giữ lập trường vĩ tuyến 18; Việt Nam kiên quyết vĩ tuyến 16. Phải đến phiên họp chiều tối 20-7, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng mới chấp nhận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Thời hạn hai năm tổng tuyển cử cũng như các hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào, Campuchia và các vấn đề khác đều là sự giằng co giữa các bên. Ngày 21-7, các bên ra bản tuyên bố cuối cùng và kết thúc Hội nghị Geneva.

Hiệp định Geneva được ký kết đã trở thành văn bản mang tính quốc tế cho một giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam một cách toàn diện trên các mặt: Quân sự, chính trị, xã hội, ngoại giao và pháp lý, mở ra thời kỳ mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.

Theo QDND.VN


Ý kiến bạn đọc


Cùng chuyên mục

Hiệp định Geneve: Bài học quý cho hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh trong tình hình mới
Mặc dù 70 năm đã trôi qua, nhưng Hiệp định Geneve vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị hiện thực và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho hoạt động ngoại giao nói chung và đối ngoại quốc phòng, an ninh nói riêng trong tình hình hiện nay.
28/04/2024
Chiến thắng lớn thứ 2 tại mặt trận Điện Biên Phủ: Quân ta tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn Bắc Phi ở đồi Độc Lập

 Sau khi tiêu diệt hoàn toàn vị trí ngoại vi Him Lam, chiều ngày 14-3, quân ta tiếp tục tấn công vị trí ngoại vi Độc Lập ở Bắc Điện Biên Phủ.

26/03/2024
Điện Biên Phủ: “Những lời thừa nhận của tướng Henri Navarre”
“Khi mà tinh thần Việt Minh phấn chấn vì thắng lợi thì tinh thần quân đội ta bị thương tổn nặng nề. Tâm lý chiến bại ngày càng ăn sâu vào chúng ta. Thế quân bình bắt đầu bị phá vỡ có lợi cho đối phương...”. Đó là một trong những lời thừa nhận của tướng Henri Navarre, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
24/04/2024
Bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên ở Điện Biên Phủ

Năm 1952, tôi rời khỏi làng trong vùng địch tạm chiếm của xã Tam Nông, huyện Duyên Hà (nay là xã Điệp Nông, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đi bộ đội khi mới 16 tuổi. Huấn luyện xong, tôi được cử đi đào tạo ở Trung Quốc. Năm 1953, tôi về nước, biên chế vào Đại đội 815, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367 pháo cao xạ và vinh dự được tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 13-3 đến 7-5-1954.

21/03/2024