Giỗ Tổ Hùng Vương theo dòng lịch sử
Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 - 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ quan trọng nhất của dân tộc Việt
Theo dòng lịch sử ngày Giỗ Tổ Hùng Vương dù được tổ chức dưới hình thức sơ khai nhất cũng đã cách ngày nay hơn 2.000 năm có lẻ. Bắt đầu từAn Dương Vương - Thục Phán dựng cột đátrên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để thề: “Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam đựoc trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng vàgìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu nhạt hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng, búa dập”. Thời Hồng Đức Hậu Lê, năm thứ nhất (1470); Bằng việc hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố soạn “Ngọc phả cổ truyền về mười tám đời Thánh Vương Triều Hùng”thì vị thế Đền Hùng thờ các Vua Hùng được xác lập vững vàng trên nền tảng pháp lý của Nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam. Đầu thế XX, dưới triều Nguyễn, năm 1917 ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 - 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp. Thay vì ý thức hệ tâm linh và truyền thống văn hóadân tộc. “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba” Sau cách mạng tháng 8 - 1945, ngày 18 - 2 năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL - CTN cho công chức nghỉ ngày 10 - 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - Hướng về cội nguồn dân tộc. Trong ngày giỗ Tổ năm Bính Tuất -1946 cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng 1 tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp (1945 - 1954) đã gây cản trở cho việc thực hiện Sắc lệnh 22/SL - CTN; nước chưa bình yên, dân chưa hạnh phúc, công chức chưa được nghỉ lễ trong ngày giỗ Tổ. Ngày 2 - 4 - 2007 Quốc hội khóa XI (kỳ họp thứ 11) đã Thông qua Luật sửa đổi bổ sung điều 73 của Bộ luật Lao động: Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Từ nay ngày 10 - 3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LÊ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa, thể hiện được thần thái QUỐC HỒN của dân tộc. Trong ngày này nhân dân cả nước nói chung và người lao động nói riêng có điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước. Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm được tổ chức trọng thể tại Đền Hùng thuộc làng Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao (nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì) tỉnh Phú Thọ. Dưới thời phong kiến, năm chẵn do quan Thượng thư bộ Lễ đại diện cho triều đình; năm lẻ do quan Tuần phủ Phú Thọ làm chủ tế; tri huyện Lâm Thao và Tri huyện Phù Ninh làm bồi tế. Dân sở tại Hy Cương được cấp 3 quan tiền và 5 đấu gạo nếp làm lễ vật cúng tế Vua Hùng. Từ sau cách mạng tháng 8 - 1945 đến nay tỉnh Phú Thọ chủ trì tổ chức giỗ Tổ, có đại diện Nhà nước về dâng hương. Năm 1946 Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng; năm 2000 Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh; năm 2001 Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải v.v...đã chủ trì Lễ dâng hương các Vua Hùng trong ngày giỗ Tổ mồng 10 - 3 âm lịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 2 lần về thăm Đền Hùng (19 - 9 - 1954 và 19 - 8 - 1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”. Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng như: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Trần Đức Lương, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn An, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng vv... và nhiều đồng chí khác đã nhiều lần đến Đền Hùng thắp hương tưởng nhớ Tổ Hùng và trồng cây lưu niệm trong khu rừng quốc gia Đền Hùng. Từ năm 1990 đến nay, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương những năm chẵn (1990, 1995, 2000, 2005) được Đảng và Nhà nước quyết nghị là một trong những ngày lễ lớn - Quốc lễ của đất nước. Nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đều hành hương về lễ Tổ. Tại các tỉnh thành trong cả nước có 1.417 di tích thờ Vua Hùng và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương ở Việt Nam đều tổ chức lễ cúng vọng các Vua Hùng và nhiều hoạt động mang chủ đề: Hướng về cội nguồn dân tộc; hướng về đất Tổ Hùng Vương. Nhiều trường học, cơ quan, đơn vị, đường phố, địa phương... được mang tên Hùng Vương. Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, sự khẳng định một nền đạo lý Việt Nam, sức mạnh đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nói theo cách khác, ý thức cộng đồng đã được vun đắp ở thời kỳ Hùng Vương dựng nước, từ trong gia đình, thân tộc láng giềng, làng xóm và mở rộng ra cả nước theo quan hệ huyết tộc: Dòng máu Lạc Hồng, Vua Hùng là biểu tượng thiêng liêng nhất, cao cả nhất trong đời sống tâm linh của dân tộc Việt Nam. Người Việt
Hiện nay đồng bào ta khắp mọi miền đất nước, cả người Việt Nam sống ở nước ngoài đều có nguyện vọng được xây đền thờ Tổ Hùng Vương. Dù chỉ để thờ vong song ai cũng mong muốn ngôi đền phải có được sinh khí: “QUỐC HỒN” trong đó. Vậy nên phong trào hành hương về Đền Hùng viếng Tổ và xin chân hương, đất núi Hùng, nước giếng Ngọc và cây con rừng Nghĩa Lĩnh đangdần trở thành một phong tục văn hóa riêng biệt - đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng dù trong lúc đất nước thái bình hay cả trong khi vận mệnh cam go nhất, Vua Hùng vẫn hiển hiện như một nguồn sáng xuyên suốt cả thời gian lẫn không gian đến với từng người dân Việt Nam, từng gia đình người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu trong nước hay ngoài nước, như một động lực tinh thần cổ vũ niềm tin và sức mạnh cho toàn dân tộc tiến lên phía trước phát triển và hội nhập văn hóa toàn cầu trên cơ sở giữ gìn bản sắc dân tộc. |
|
Ý kiến bạn đọc