Nhớ lắm mái trường xưa
BHG - Trường THPT Lê Hồng Phong (thành phố Hà Giang) được thành lập năm 1950; ngôi trường thân yêu của chúng tôi nay bước vào tuổi 70 đầy kiêu hãnh.
Trường THPT Lê Hồng Phong hôm nay. |
Năm học này, tôi bỗng nhớ về mái trường cấp III thân yêu, Trường Lê Hồng Phong của chúng tôi, mái trường đã lưu giữ biết bao kỷ niệm thời thanh xuân. Bâng khuâng, tôi thầm đọc câu thơ đậm chất học sinh của nhà thơ Nguyễn Bình Phương: “Bạn có đến xin mái trường nhắn hộ/Rằng hôm nay tôi trở lại đây tìm“.
Trong một chuyến về quê, tôi gặp thầy Nguyễn Văn Thịnh, thầy giáo dạy môn Hóa học của chúng tôi, nguyên Hiệu trưởng nhà trường. Thầy luôn hết lòng vì học trò, yêu trường, gắn bó, tâm huyết với ngôi trường đến kỳ lạ.
Sau khi nghỉ hưu, thầy dành nhiều thời gian gặp gỡ, ghi chép lại tên tuổi các thầy, cô giáo, học sinh của trường từ những năm đầu mới thành lập đến nay. Thầy sưu tầm tài liệu, ghi chép lại quá trình xây dựng và phát triển của nhà trường, những lần sơ tán, những khi chuyển địa điểm, những học sinh của nhà trường đã hy sinh vì Tổ quốc, những thầy giáo, học sinh thành đạt… Từng trang tư liệu là lịch sử của ngôi trường.
Thầy say sưa tâm sự rằng các bậc tiền bối kể lại: Khi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), thực hiện vườn không nhà trống, một bộ phận nhân dân thị xã Hà Giang chuyển vào chân núi Mỏ Neo, thành lập hai khu dân cư mới là Cầu Phát và Chợ Mới thuộc xã An Cơ huyện Vị Xuyên. Để đáp ứng nhu cầu học tập của con em khu vực tản cư, các lớp học đã ra đời, lớp học đặt nhờ nhà của đồng bào địa phương, các thầy, cô giáo sống ba cùng nhà dân sơ tán.
Trong kháng chiến gian khổ, nhưng số học sinh đến lớp vẫn tăng dần. Năm 1950, ngôi trường nhỏ ra đời, mang tên “Trường Cơ Bản tỉnh Hà Giang” do thầy Vũ Văn Cấp, Trưởng ty Giáo dục trực tiếp phụ trách. Đời sống thời chiến nhiều khó khăn, nhưng các thầy, cô rất yêu nghề, vừa dạy văn hóa vừa giáo dục đạo đức cho học sinh, thầy trò cùng rào tường, trồng sắn, trồng ngô, khoai, rau, đậu. Thực hiện khẩu hiệu “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, các thầy tổ chức hoạt động hướng về cuộc kháng chiến “Toàn dân - toàn diện” bằng nhiều cách: Học sinh lớn vào rừng lấy củi bán, chặt mía thuê gây quỹ mua “Công trái kháng chiến”; học sinh nhỏ nhịn quà sáng, dành tiền góp công quỹ…
Năm 1950, bộ đội từ miền xuôi hành quân qua Hà Giang theo Quốc lộ 2 sang Trung Quốc luyện tập quân sự chuẩn bị tổng phản công nên giặc Pháp tăng cường bắn phá thị xã. Từ học ban ngày, trường phải chuyển sang học ban đêm, có thời gian phải học trong hang đá.
Sách giáo khoa chưa có, giấy viết phải dùng báo cũ ngâm nước vo gạo, nước vôi, phơi khô, rồi lấy chai lăn cho phẳng. Thời kì đầu, học sinh dùng dầu ve, mỡ lợn, mỡ bò, có khi phải dùng hạt bưởi, xiên phơi khô đốt thay đèn để có ánh sáng học đêm; cắm ngòi bút vào que tre để có bút viết. Tuy vậy, nhờ lòng hiếu học, lại được các thầy, cô thương yêu, giảng dạy nhiệt tình nên học sinh đến lớp đầy đủ, tiếng học bài vẫn vang vọng vách núi.
Sau chiến thắng của quân và dân Hà Giang trên mặt trận Lê Hồng Phong 2 (Hoàng Su Phì) cuối năm 1950; năm 1951, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và ra hoạt động công khai. Tỉnh ủy Hà Giang quyết định đổi tên Trường Cơ Bản Hà Giang thành Trường Lê Hồng Phong.
Lúc này, trường chuyển từ Cầu Phát sang chân Núi Cấm (nơi đặt Tượng đài liệt sỹ thành phố Hà Giang hiện nay). Tất cả các tư liệu thầy Thịnh đều lưu giữ, kể cả những câu ca dao, hò vè, những bài thơ của thầy và trò nhà trường làm trong từng giai đoạn phát triển, với tấm lòng trân trọng, nâng niu.
70 năm trôi qua, từ Trường Cơ bản (cấp 1) rồi Nhô cấp 2, cấp 2 hoàn chỉnh, Nhô cấp 3 và đến nay thành một trường PTTH bề thế, với bề dày truyền thống đánh dấu một chặng đường giáo dục, đào tạo gian nan của miền sơn cước. Là học sinh của trường từ 1967 - 1970, chúng tôi đã học tại trường sơ tán trên núi ở km 2 đường Hà Giang - Đồng Văn, rồi “hạ sơn”, thầy trò vào Phú Linh, Kim Thạch chặt nứa, chặt vầu về dựng trường ở Cầu Phát.
Khi trường chuyển về địa điểm hiện tại, chúng tôi đã đi bộ đội. Những tháng năm trong quân ngũ, chúng tôi luôn nhớ về thầy cô, về mái trường thân yêu. Cùng nhập ngũ với tôi có 5 bạn đều là học sinh Trường Lê Hồng Phong, thời ấy chúng tôi có thói quen gọi nhau thường kèm theo tên bố như Tân Hạp (bác Hạp bố Tân là Phó ty Nông nghiệp), Thắng Phụ (bác Phụ bố Thắng là Phó ty văn hóa), Phương Phan (bác Phan là Phó ty y tế), Tích con bác Giá… Riêng tôi, vì ở vùng sâu ra học, lúc nào cũng ngơ ngác nên bạn bè gọi là Tông Mán hoặc Tông dật, tôi chẳng tự ái mà còn thấy vui vui. Những năm tháng đầu trong quân ngũ chúng tôi nhắc nhiều kỷ niệm về mái trường, về những ngày đi sơ tán, về thầy, cô, bạn bè cùng trang lứa, về ước mơ nữa. Xa trường hơn nửa thế kỷ, chúng tôi đều đã về hưu, ai cũng mang gương mặt nhàu nhĩ, dấu ấn hủy hoại của thời gian và gánh nặng cuộc đời, gặp lại nhau vẫn “mày tao”, nhưng cái tiếng gọi “mày tao” hôm nay trĩu nặng suy tư, không còn nhẹ hều và vô tư như thuở trước.
Lớp tôi hơn năm chục người mà gom lại chưa được 20. Vợ chồng Lý Hồng Minh, Toán Phương Lan định cư ở Hoa Kỳ xa lắc, thỉnh thoảng có về quê nhưng hầu như không ai gặp. Hoàng Đình Pắn ở Tuyên Quang cũng không lên được. Thật cảm động khi Nguyễn Trọng Thắng cũng đến được với các bạn. Mấy năm trước Thắng bị tai biến giờ tạm hồi phục nhưng vẫn nhớ nhớ quên quên.
Biết anh khao khát gặp bè bạn, thương chồng, chị Thuý vợ anh đưa anh đi bằng xe máy hơn 20 km từ thị trấn Vị Xuyên lên thành phố rồi lại về trong đêm. Nhóm Hải, Giang, Tông ở Hải Dương, Phú Thọ, Hà Nội lên, phần lớn các bạn đều loanh quanh ở thành phố Hà Giang, Vị Xuyên. Tôn, Phan, Chu, Quyết, Mão, Chiêm, Khuê, Hoạch, Cúc, Quy, Dần, Mai, Hùng, Minh, Thắng, Liêm, Bảo, Chiến, Hằng, Long, Vân, Tân… tất cả đều đã an phận với vai “ô sin” không lương.
Hoàn cảnh khác nhau nhưng chúng tôi giống nhau ở điểm đều an nhiên tự tại, bằng lòng với cuộc sống của mình. Hình như ai sống ở vùng quê miền núi này cũng vậy, tốt vì không vướng vòng vào kèn cựa, đố kỵ, mưu mô, nhưng dở là không dám bứt phá, không dám đi xa, làm cái gì cũng rụt rè, không quyết liệt.
Gặp nhau, chúng tôi vẫn nhắc nhiều về các thầy cô, những người đã tận tình truyền đạt kiến thức, dìu dắt chúng tôi trưởng thành. Đó cũng là lúc để suy ngẫm, để nhớ về những kỷ niệm với thầy, cô đáng kính, là dịp đặc biệt để chúng tôi, những cô cậu học trò một thời thể hiện tình cảm với thầy cô, với bạn bè thân thương. Chúng tôi vẫn nhớ thầy Lã, thầy Vĩnh, thầy Quang, thầy Sự, thầy Hỷ, thầy Yến, thầy Khuê, thầy Thịnh, thầy Lịch… những người thầy nghiêm khắc và mô phạm, những người thầy chúng tôi trân trọng và kính yêu.
Ngổn ngang với bao ký ức, bao nhiêu kỷ niệm thời thanh xuân, cái thời vô tư, cái thời nghịch ngợm. Gặp nhau, đám học trò già cùng ôn lại vui buồn, kể cho nhau nghe biết bao chuyện, ăn với nhau một bữa cơm, rồi chia tay, hẹn gặp lại trong những mùa Xuân sau.
70 năm xây dựng và trưởng thành, tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh Trường THPT Lê Hồng Phong vẫn luôn thi đua “Dạy tốt - học tốt” đạt được nhiều thành tích trong giáo dục, dạy chữ - dạy người, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Từ mái Trường Lê Hồng Phong thân yêu đã có hơn 10 nghìn học sinh với hành trang trình độ phổ thông cơ sở, THPT như những cánh chim tung cánh mọi miền đất nước, trên mọi lĩnh vực hoạt động, công tác, đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ, dựng xây đất nước.
Mang theo ước mơ và niềm tự hào từ mái Trường Lê Hồng Phong, dù ở cương vị nào, làm bất cứ công việc gì, các thế hệ học trò đã và đang đem về cho trường những thành công mới, niềm vui mới. Nhiều học sinh tạm gác bút nghiên lên đường nhập ngũ, có người hy sinh máu xương để bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người trở thành các nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý cơ quan của Đảng, chính quyền từ T.Ư đến địa phương. Hơn nửa thế kỷ qua, đã có 16 thế hệ thầy Hiệu trưởng, hàng trăm lượt thầy, cô tham gia giảng dạy tại mái trường này. Các thầy, cô đã đem tuổi trẻ, tâm sức của mình vì học sinh thân yêu.
Những đóng góp bền bỉ của thầy, trò nhà trường 70 năm qua đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận: Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1996); Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2011); Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2016); biểu tượng Vàng “Vì sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam”; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ... Có 7 nhà giáo vinh dự được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú; gần 40 nhà giáo được tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giáo dục”.
70 năm, thời gian đủ để khẳng định thương hiệu một cơ sở đào tạo, một đơn vị luôn phát triển bền vững.
Hà Phương Thiện
Ý kiến bạn đọc