Duy ý chí "căn bệnh" nguy hiểm cần tránh
BHG - Ý chí là một trong những yếu tố làm nên phẩm chất, bản lĩnh của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào ý chí cá nhân mà không tuân theo quy luật khách quan, hay coi ý chí là “chìa khóa vạn năng” để giải quyết mọi công việc mà không xuất phát từ thực tiễn cuộc sống thì lại là duy ý chí - một trong những biểu hiện của căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản” dễ làm người cách mạng tự sa ngã, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” – điều này hết sức nguy hiểm.
Ảnh minh họa |
Bệnh duy ý chí để lại nhiều hệ lụy
Những người duy ý chí thường có chung đặc điểm là xem xét, nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng theo cảm tính chủ quan, coi ý kiến của mình luôn đúng, thậm chí “duy nhất đúng”. Chủ nghĩa duy ý chí từng là một trong những sai lầm của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới, coi ý chí con người là điều kiện tiên quyết để cải tạo, làm thay đổi thế giới, phủ nhận tính quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Những người duy ý chí có tư tưởng nóng vội, tinh thần lạc quan thái quá, muốn nhanh chóng đạt kết quả, mục tiêu mà không xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, thấu đáo mọi vấn đề, mọi khía cạnh, dễ ảo tưởng về sức mạnh chủ quan mà không tiên lượng được hết những khó khăn, trở ngại do cả yếu tố khách quan và chủ quan gây ra.
Trước đây, một phần do thiếu thông tin khoa học, phần vì không nhận thức thấu đáo về sự quanh co, phức tạp của tiến trình xây dựng chế độ xã hội mới nên một bộ phận cán bộ, đảng viên khi nhìn về phía trước thường qua “lăng kính màu hồng” nên ít nhiều bị vấp váp, sai lầm trên con đường cách mạng và trong hoạt động thực tiễn. Thế nhưng, thời nay, khi trình độ dân trí, tri thức khoa học, môi trường thông tin xã hội tiến bộ, phong phú hơn trước rất nhiều, mà vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên “duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình, không chịu lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác” một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII của Đảng chỉ ra.
Bệnh duy ý chí bộc lộ dưới rất nhiều khía cạnh mà không phải ai cũng dễ phát hiện, nhưng thực ra lại không khó để nhận diện. Đó là khi đánh giá tình hình thường chỉ dựa vào một nhóm người có quyền quyết định mà không nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình thực tế, nên đã ban hành những quyết sách không phù hợp. Cũng từ quan niệm “tân quan, tân chính sách”, nhiều cán bộ thời gian đầu mới giữ cương vị lãnh đạo luôn tỏ ra sốt sắng, lo lắng cho việc chung, muốn sớm tạo ra dấu ấn của riêng mình, vì thế đã đưa ra các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án với những mục tiêu “khả quan, xán lạn”, vẽ ra các con số đẹp nhưng không khả thi, thậm chí lợi bất cập hại. Điều đáng cảnh báo hơn là nhiều khi bệnh duy ý chí không hẳn xuất phát từ tư duy ấu trĩ, nhận thức non nớt, tư tưởng nóng vội, mà nó còn xuất phát từ lợi ích nhóm rất tinh vi. Lợi dụng nhân danh tập thể để ban hành cơ chế, chính sách có lợi cho nhóm thiểu số cá nhân người có chức có quyền, song lại gây ra bao hệ lụy, thậm chí để lại hậu quả khôn lường về KT-XH cho địa phương, đất nước.
Cần khiêm tốn học hỏi, lắng nghe ý kiến phản biện
Nói về tác hại của chủ nghĩa duy ý chí, sinh thời, V.I.Lênin từng cho rằng: “Đối với một chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan”. Đối với cán bộ, đảng viên, tư tưởng duy ý chí, thái độ áp đặt ý kiến chủ quan cá nhân không chỉ là biểu hiện nổi cộm của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, độc đoán, gia trưởng, mà còn gây ra sự nghi kỵ, mất đoàn kết nội bộ, dẫn tới mất sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức Đảng; kìm hãm sự phát triển lành mạnh của cơ quan, đơn vị, địa phương và rộng hơn là cả xã hội.
Vậy làm sao để phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi bệnh duy ý chí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức có quyền hiện nay? Để tìm ra câu trả lời thỏa đáng cho vấn đề này không đơn giản, nếu như một bộ phận cán bộ không thật sự có tư tưởng tiến bộ, tinh thần cầu thị, tinh thần liêm khiết và ý thức thật sự vì nước, vì dân, vì lợi ích chung của cộng đồng và tập thể.
Cán bộ, đảng viên phải có tư tưởng tiến bộ để tự mình ngăn ngừa, loại bỏ những tàn dư lạc hậu trong suy nghĩ, thái độ, việc làm ảnh hưởng đến quy luật, chiều hướng phát triển tích cực của tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương. Có tinh thần cầu thị để khiêm tốn học hỏi, lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đóng góp, phản biện lành mạnh của cấp dưới, người khác và cán bộ có trình độ chuyên môn tốt. Có tinh thần liêm khiết để không bị lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân chi phối vào việc ban hành các chủ trương, quyết định của tập thể.
Cần chú trọng hơn nữa là thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, tăng cường kiểm soát quyền lực cá nhân người đứng đầu và những người có thẩm quyền ban hành quyết định về chủ trương, cơ chế, chính sách; kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý nghiêm minh những biểu hiện duy ý chí, áp đặt ý kiến cá nhân gây tổn hại đến lợi ích chung. Vấn đề này đã được đặt ra từ nhiều năm nay, nhưng trên thực tế công tác kiểm tra, giám sát ở không ít cấp ủy, tổ chức Đảng thời gian qua không được duy trì chặt chẽ, hiệu quả; nhiều nơi vừa có dấu hiệu buông lỏng, vừa có biểu hiện kiểm tra, giám sát không đến nơi đến chốn. Từ đó dẫn đến tình trạng một bộ phận cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu vẫn không thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, không giải quyết đúng đắn và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa vai trò tập thể lãnh đạo với trách nhiệm cá nhân phụ trách…
Trung tá, ThS Đặng Công Thành
Ý kiến bạn đọc