Đại thi hào Nguyễn Du và những di sản vô giá của dân tộc
BHG - Nguyễn Du (1766 – 1820) với tài năng và nhân cách của mình đã để lại cho hậu thế một di sản thi ca đồ sộ: Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trương Lưu, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Văn tế thập loại chúng sinh và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều, đỉnh cao của nền văn học Việt Nam.
Sống trong một xã hội diễn ra biết bao nghịch lý. Nấp sau oai phong lễ nghi ở chốn cung đình, ở nơi nha môn, bên cạnh những viên quan lại cao mạo, thì lộ hình những kẻ buôn người mà ở đó đồng tiền đã trở thành thế lực vạn năng, ở đó biết bao lớp người cùng cực bị đối xử tồi tệ, ở đó nhân phẩm đạo lý được rao giảng đã bị thực tế phũ phàng chôn vùi. Sinh ra trong một xã hội như thế, ở một gia đình quan lại, được giáo dục bằng những gia phong khuôn phép và đào tạo thành bậc chức sắc, thế mà Nguyễn Du, ông quan ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh từ quan niệm trung hiếu của một nhà nho tầng lớp trên đã có sự đột phá trong tư duy để nhìn thẳng và xuyên suốt vào cuộc sống thực tại với tầm tư tưởng nhân văn mới mẻ và táo bạo đến lạ lùng. Với Nguyễn Du cái tâm là hạt nhân, là cốt lõi, là bản chất của nhân văn. Ông xem “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và từ cái tâm của mình ông đã hoà vào mọi kiếp người, đi đến tận cùng của những xung đột, những bi kịch, những nghịch cảnh, những nỗi bất hạnh của lớp người chịu áp bức, đè nén để hiểu và đồng cảm với họ.
Điều kỳ lạ là đọc Truyện Kiều chỉ qua vài câu, thậm chí vài chữ trong thơ mà tính cách bộ mặt của một nhân vật được ông vạch ra, được ông chỉ đích danh. Bằng những ngôn từ bóng bẩy nhưng dân dã, thẳng thừng mà chua chát, ông đã vạch mặt, chỉ trán tên quan tham ô, gã lái buôn xảo quyệt, mụ chủ lầu xanh gian giảo… Những câu thơ những nhân vật trong Truyện Kiều đã được dân gian chuyển hóa thành ca dao, tục ngữ; thành nhân vật điển hình cho các loại người trong cuộc sống như là tên Sở Khanh, mụ Tú Bà, chàng Từ Hải… Nhưng tâm điểm và xuyên suốt trong sự nghiệp của Nguyễn Du, nhằm tố cáo, lột trần bản chất của xã hội, đồng thời gửi gắm tỏ bày tư tưởng nhân văn, đạo lý, lòng thương yêu của mình, ông đã đưa nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều thăng hoa đến vậy. Dưới ngòi bút của nhà văn xuất chúng, ông đã ca ngợi và phác họa lên một phẩm chất cao đẹp về đức hy sinh, chịu đựng cũng như sự xúc động thổn thức của trái tim yêu thương, tâm hồn ưu tư, trong sáng về chân dung một nhân vật mà trong đó chứa đựng được triệu triệu số phận con người. Quả là chỉ có tấm lòng nhân đạo cao cả, một trái tim vô hạn thương yêu, vô hạn cảm thông với con người, một tài năng kiệt xuất mới có thể sáng tạo nên được những nhân vật như thế.
Đi cùng với thời gian, không gian, tên tuổi Nguyễn Du và Truyện Kiều ngày càng tỏa sáng, lan xa cuốn hút biết bao nhiêu trái tim bè bạn từ nhiều quốc gia trên thế giới. Đã hơn hai thế kỷ mà Truyện Kiều vẫn còn mới mẻ, đó chính là sự thành công của Nguyễn Du, cho đến nay chưa có một ai có được về viết tiểu thuyết bằng thơ, một quyển thơ - tiểu thuyết đặc trưng cho thơ lục bát đã đưa Truyện Kiều đến đỉnh cao sáng chói không chỉ của nền thơ văn Việt Nam mà còn là của nhân loại. Đỉnh cao của Đại thi hào Nguyễn Du còn ở chỗ ông đã chải chuốt, tinh luyện tiếng Việt, đưa ngôn ngữ dân tộc đến chói sáng lung linh, vừa khuôn mẫu, uyên bác; vừa đậm đà chất đời thường. Để rồi đọc Truyện Kiều ai cũng hiểu, cũng cảm nhận được, nhưng vẫn cảm thấy có cái gì đó cao siêu hơn nữa mà mình chỉ mới nhận biết được như vậy là chưa đủ. Truyện Kiều được dân gian hóa cho mọi tầng lớp nhân dân, cả việc vận dụng vào cõi tâm linh để linh ứng cho những số phận đời thường…
Nguyễn Du từng băn khoăn: “Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà như khấp Tố Như”. Thế mà đến nay, từ điểm nhìn 255 năm về sau, dân tộc Việt Nam lại hướng về ông để cùng chia sẻ những yêu thương; để ngưỡng mộ ông về sự mẫu mực tuyệt vời của một nhân cách ở đỉnh cao chói lọi trong nền thơ ca của dân tộc. Hôm nay đây đọc lại những tác phẩm của Nguyễn Du vẫn như đang gợi mở cho ta biết bao câu hỏi lớn về thời cuộc, bao vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, giải phóng con người; về xây dựng một xã hội thật dân chủ, bình đẳng, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con đường đưa dân tộc phát triển, tiến tới mà Bác Hồ và Đảng ta lựa chọn.
Thật vô cùng tự hào, đất nước ta có được Nguyễn Du. Theo suốt chiều dài lịch sử tên tuổi cụ gắn liền với núi Hồng Lĩnh, dòng Lam Giang, làm rạng rỡ và sống mãi cùng với non sông đất nước Việt Nam. Tư tưởng nhân văn của ông không chỉ nằm ở câu chuyện văn chương, mà hiện nay với chúng ta vẫn đang là câu chuyện của cuộc đời, của cuộc đấu tranh đẩy lùi những tệ nạn tiêu cực, hướng tới mục tiêu cao đẹp, văn minh trong sự nghiệp đổi mới. Thiết nghĩ tưởng nhớ đến ông, noi theo ông hướng tới cái chân - thiện - mỹ, lấy cái tâm, cái đức làm đầu, các thế hệ con cháu chúng ta cùng nhau đồng lòng, chung sức xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, để cho Sông Lam mãi “long lanh đáy nước in trời”, núi Hồng sừng sững muôn đời “non soi bóng vàng”, dân tộc Việt Nam “Sánh vai cùng cường quốc năm châu”.
TS. Đặng Duy Báu