Về một con đường mang tên "Hạnh phúc"
BHG - Để có được con đường mang tên “Hạnh phúc” nối thị xã Hà Giang với 4 huyện vùng cao phía Bắc, 14 thanh niên xung phong đã vĩnh viễn nằm lạị trên cao nguyên đá. Thuở ấy, 4 huyện vùng cao núi đá: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc chỉ là một huyện mang tên Đồng Văn, huyện lỵ đặt ở thị trấn Phó Bảng. Vùng đất rộng bằng cả tỉnh Bắc Kạn với 8 vạn dân thuộc 16 dân tộc sống biệt lập với thế giới bên ngoài trong tình trạng đói nghèo và lạc hậu, vì hệ thống giao thông chỉ là đường mòn, phương tiện giao thông chỉ có ngựa và đôi chân của con người.
Đường Hạnh phúc vắt qua Mã Pí Lèng. Ảnh: HUY BA |
Người Pháp đến Hà Giang từ năm 1900, họ đã từng khảo sát, từng muốn mở đường lên vùng đất này, vậy mà gần nửa thế kỷ chiếm đóng, họ vẫn không thay đổi được gì, việc tiếp tế cho các đội quân đồn trú của Pháp vẫn phải chuyển theo những con đường mòn cheo leo bằng sức người và ngựa. Năm Khải Định thứ 13 (1928), chính quyền phong kiến Nam Triều chính thức có sắc phong “Biên viễn khả phong đại thần” cho “Vua Mèo” Vương Chính Đức, sau đó Vương Chí Trung (Sình) kế vị. Hai cha con “Vua Mèo” sở hữu vựa thuốc phiện dồi dào bậc nhất Đông dương thời ấy, lại là ông chủ chợ Đồng Văn, nơi được coi là “Hồng Công” của vùng cực Bắc Việt Nam, tiền bạc không thiếu và cũng từng ôm mộng mở đường mà đành ngậm ngùi chịu thua, để rồi mỗi lần về xuôi lại phải huy động hàng chục tráng đinh khiêng kiệu đi bộ ròng rã 3-4 ngày mới xuống được tới tỉnh lỵ Hà Giang.
Không thể để vùng đất ấy mãi biệt lập, ngày 29.3.1959, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (khóa III) họp và ra Nghị quyết đề nghị Trung ương và Khu tự trị Việt Bắc cho mở tuyến đường lên Đồng Văn. Được Trung ương và Khu tự trị đồng ý, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 10.9.1959, tại thị xã Hà Giang, Bộ Giao thông - Vận tải; Trung ương Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam và tỉnh Hà Giang tổ chức lễ khởi công mở đường “Hạnh phúc”.
Sau Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, có lẽ đường “Hạnh phúc” là công trình thu hút thanh niên trong cả nước xung phong tham gia nhiều nhất. Hơn 1.300 nam, nữ thanh niên xung phong (TNXP) từ 6 tỉnh Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) và 2 tỉnh đồng bằng (Nam Định, Hải Dương) đã sát cánh cùng hơn 1.000 dân công của 16 dân tộc trên cao nguyên đá bắt tay vào phá núi mở đường. Với dụng cụ lao động vô cùng thô sơ, chỉ là cuốc, xẻng, búa tạ, xà beng, xe cút kít..., trong điều kiện làm việc vô cùng khó khăn, thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu nước, thiếu dầu, thiếu rau xanh, vật vã với khí hậu khắc nghiệt của vùng cao, mùa hạ nóng như rang, mùa đông rét cắt da cắt thịt, có những khi nhiệt độ giảm xuống dưới không độ, nước đóng thành băng trên đá, cả ngàn người lao vào đục đá làm đường.
Con đường mới khởi công được hơn 2 tháng thì bọn thổ phỉ và tàn dư Quốc dân đảng nổi lên hoành hành khắp nơi. Ngày 30.11.1959, một trung đội phỉ 40 tên do Vàng Chỉn Cáo chỉ huy đã khóa chặt Cổng Trời Cán Tỷ, cắt đứt con đường mòn huyết mạch từ Hà Giang lên Đồng Văn. Hôm sau, toán phỉ chặn Cổng Trời đã tấn công bắt giữ hai đoàn ngựa thồ hàng của tỉnh lên Đồng Văn, đuổi cán bộ quay trở lại. Một tuần sau đó, hàng loạt địa bàn trên toàn huyện bị thổ phỉ cướp phá, chúng lùng bắt cán bộ, đốt nhà, cướp của. Từ ngày 12 đến ngày 28.12.1959, hàng loạt cuộc tấn công của phỉ nhằm vào bộ máy chính quyền cơ sở nổ ra. Vàng Chúng Dình, một tàn quân Quốc dân đảng Trung Quốc dẫn 200 tên phỉ tấn công thị trấn Đồng Văn, Vàng Dúng Mỷ đánh phá Mèo Vạc, cướp cửa hàng mậu dịch. Ngày 20.12, đầu lĩnh Phàn Chỉn Sài đưa một toán phỉ đánh vào Na Khê, Bạch Đích, bắt cán bộ huyện treo lên cây làm bia cho lính bắn. Ngày 28.12, Giàng Quáng Ly chiếm Yên Minh, Vàng Chỉn Cáo, Phàn Dền chiếm Cán Tỷ, Đông Hà (Quản Bạ).
Lúc này tuy các địa phương ở Đồng Văn đều đã có chính quyền dân cử, nhưng các vị trí lãnh đạo chủ chốt vẫn nằm trong tay những người xuất thân quý tộc lớp trên, quyền lực hành chính vẫn gắn chặt với quyền lợi của dòng tộc, gia tộc. Lợi dụng tình hình này, các nhóm tàn quân Tàu Tưởng đã tìm cách móc nối, câu kết, ra sức kích động nổi loạn, chiếm đất, nhằm mục tiêu thành lập “Vương quốc Mèo độc lập”. Chúng cho tay chân loan tin, rằng “Vua Mèo” Dương Trung Nhân ở Mèo Vạc được Mỹ và quốc tế ủng hộ sắp trở về Đồng Văn. Những toán tàn quân Quốc dân đảng bị quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đuổi chạy dạt sang biên giới được tô vẽ thành “các đạo quân quốc tế” giúp “Vua Mèo” khôi phục lãnh thổ thành lập vương quốc. Thổ phỉ còn tung tin lừa bịp dân, rằng bao giờ đá mọc trên đầu người, dê đực biết đẻ, mộ những người làm đường hóa thành cỏ dại, thì Việt Minh mới mở được đường vào Đồng Văn, mới xuyên qua được “sống mũi ngựa” (Mã Pí Lèng).
Khó khăn chồng chất, thiếu thốn đủ bề, nhưng với khí thế sục sôi cách mạng của tuổi trẻ, hàng ngàn người tham gia công trình có một không hai này đã không ngại gian khổ hy sinh, quyết bám núi, bám đường, lao động miệt mài nơi rừng thiêng nước độc và loạn lạc. Thời gian đã khẳng định ý chí của họ khi từng đoạn, từng đoạn đường được nối thông. Ô tô lần lượt qua Cổng Trời, vượt sông Tráng Kìm, qua Cán Tỷ (Quản Bạ); rồi dốc 9 khoanh... ngày 9.9.1963 con đường vươn đến thị trấn Đồng Văn. Sau hơn 4 năm, tuyến đường dài 164 km đã hoàn thành trong muôn vàn gian khổ hy sinh của hàng ngàn thanh niên xung phong và sự góp sức của hàng ngàn dân công vùng cao.
Đoạn khó khăn nhất của tuyến đường chỉ có 21 km từ Đồng Văn sang Mèo Vạc lại phải mất thêm gần 2 năm lao động vất vả nữa mới hoàn thành. Đoạn đường này chính là con đèo hiểm trở Mã Pí Lèng. Chuyện kể rằng, con đèo nổi tiếng với dốc cao dựng đứng này đã khiến những con ngựa cái leo chưa đến đỉnh đã trụy thai mà chết, những con ngựa đực chưa vượt qua đèo đã phải tắt thở. Vì vậy dân địa phương đã dùng cụm từ “Mã Pí Lèng” trong tiếng Quan Hỏa, nghĩa đen là “sống mũi con ngựa”, đặt tên cho con đèo. Cái tên “Mã Pí Lèng” của con đèo đã nói lên sự hiểm trở của ngọn núi, của con đèo, với những dốc cao dựng đứng như sống mũi con ngựa. Để hoàn thành con đường qua đèo, trong 11 tháng trời hàng trăm TNXP đã thay nhau treo mình trên vách đá để đục từng thớ đá, đục từng lỗ mìn, để kéo dài con đường thêm từng xăng - ti - mét. Cũng như ở chiến trường, nhiều người đã được truy điệu sống trước khi cầm choòng, cầm búa leo lên vách đá. 17 người khỏe mạnh, gan dạ nhất đã ra nhập đội cảm tử, Ban chỉ huy công trường gọi là “Đội Cơ dũng”, đem sức người nhỏ bé chọi lại sức mạnh của biển đá nghìn năm. Trên đỉnh núi đặt sẵn 10 cỗ quan tài thể hiện ý chí “quyết tử”. Mỗi sáng, các thành viên “Đội Cơ dũng” hô to “quyết thắng” rồi vác choòng (xà beng 8 cạnh), búa, ít thuốc nổ, trèo lên vách núi. Treo mình giữa lưng chừng trời, họ đục vách đá, nhét thuốc nổ vào, rồi hô đồng đội kéo lên đỉnh núi. Ít phút sau mìn nổ, vỡ ra một miếng đá nhỏ bé.
Trong công cuộc phá núi mở đường có một không hai đó nhiều người đã hy sinh. Đó là anh Đào Ngọc Phẩm quê ở Thái Nguyên, sẵn sàng xa vợ và 2 con, lên Hà Giang nhập đội quân mở đường. Đang leo lên vách đá chênh vênh, khi thấy 2 bố con người Mông đi chợ bị trượt chân, anh Phẩm vươn người ra cứu, hòn đá anh dưới chân anh bửa ra, cả người và đá mất hút dưới vực sâu. Thi thể anh nát nhừ, khi đưa anh lên mai táng không ai cầm được nước mắt. Cái chết của anh Lương Quốc Chanh 19 tuổi, quê ở Cao Lộc, Lạng Sơn cũng khiến mọi người không thể quên. Làm việc trong điều kiện quá khắc nghiệt, anh mắc bệnh, nhiều người đã vào các bản xa xôi kiếm thuốc, nhưng không cứu được người đồng đội của mình. Nhà báo Hà Duy Nguyên đã viết về cái chết của anh Chanh thật cảm động. Ông Sùng Đại Dùng, nguyên Bí thư Đoàn Thanh niên lao động Công trường, hai vợ chồng ông Đàm Văn Kiền, những TNXP trực tiếp tham gia mở đường “Hạnh Phúc” cùng anh Chanh, vẫn nghẹn ngào mỗi khi nhắc lại những kỷ niệm về người đồng đội. Trước khi nhắm mắt, anh Chanh khóc: “Tôi sẽ chết ở đây, tôi nằm bên vệ đường Hạnh Phúc này. Anh em phải tiếp tục phá đá. Mai đây con đường hoàn thành, anh em về lại Lạng Sơn. Liệu ai còn nhớ tôi không? Tôi sẽ nhớ mọi người lắm đấy”. Mọi người òa lên nức nở, đau đớn tiễn anh đi.
Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, người nghiên cứu nhiều tài liệu về công trình phá núi mở đường “Hạnh Phúc” đã khẳng định đó là con đường đạt nhiều kỷ lục nhất trong lịch sử làm đường ở nước ta. Thi công hoàn toàn bằng sức người, gian khổ nhất, vượt qua vùng núi đá cao nhất, thời gian thi công lâu nhất, số ngày công nhiều nhất. Với trên 2 triệu ngày công, đục khoét gần 3 triệu mét khối đá, không có sự hỗ trợ của máy móc. Chỉ bằng lao động thủ công với công cụ thô sơ: cuốc, thuổng, búa, xà beng trong sự quấy nhiễu của thổ phỉ và thiếu thốn mọi mặt về vật chất, làm sao những con người bình dị ấy có thể chiến thắng được cả một biển đá sừng sững như thế? Chỉ có một câu trả lời: Đó là ý chí, là lòng quyết tâm cùng với niềm tin sắt đá vào tương lai và sức mạnh của chính mình mới có thể khiến đội ngũ Thanh niên xung phong thành công khi chinh phục cao nguyên đá.
Chính vì vậy, đoạn đèo Mã Pí Lèng 9 khoanh dài 20 km được coi là công trình “Vạn Lý Trường Thành” của Việt Nam. Những năm gần đây, với phương tiện máy móc hiện đại, con đường “Hạnh Phúc” nhiều lần được mở mang tu sửa ngày càng to rộng, dễ đi, con đèo hiểm trở Mã Pí Lèng không còn làm chết ngựa nữa mà đã trở thành di sản đặc sắc về địa chất và cảnh quan. Khu vực đỉnh đèo Mã Pí Lèng còn được đánh giá là một trong những điểm quan sát toàn cảnh lý tưởng nhất, từ đây có thể ngắm nhìn khung cảnh núi tiếp núi trập trùng hùng vĩ nhất, đẹp nhất Việt Nam. Hẻm vực sông Nho Quế kéo dài, sâu hút dưới chân đèo là một thung lũng kiến tạo địa chất độc nhất vô nhị, góp phần tạo nên những sắc thái kỳ lạ, hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây.
Tấm bia đá dựng ở lưng đèo Mã Pí Lèng ghi rõ: ngày khởi công con đường “Hạnh Phúc” 10.9.1959, hoàn thành ngày 15.6.1965. Mộ những TNXP ngã xuống trong những năm mở đường “Hạnh Phúc” nay đã được quy tập về nghĩa trang riêng mới được xây dựng tại huyện Yên Minh. Trong lễ kỉ niệm 60 năm ngày truyền thống TNXP (15.7.1950 – 15.7.2010) của tỉnh Hà Giang, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang phát biểu: “Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang luôn tự hào, đánh giá cao vai trò và sự cống hiến xuất sắc của lực lượng TNXP 6 tỉnh: Cao Bằng - Lạng Sơn - Thái Nguyên - Bắc Kạn - Tuyên Quang - Hà Giang và 2 tỉnh Nam Định - Hải Dương. Đây là chiến công hiển hách, một biểu tượng đẹp, để lại một sản phẩm vô giá là con đường Hạnh phúc, góp phần đem lại bình yên, ấm no cho đồng bào các dân tộc trên cao nguyên đá Hà Giang. Hà Giang luôn ghi nhớ sự hi sinh to lớn của các thế hệ TNXP cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và Hà Giang nói riêng”.
Cảm xúc trước cung đường huyền thoại, nhạc sỹ Nguyễn Trùng Thương, đã sáng tác ca khúc “Cung đường mùa Xuân” với ca từ rất lãng mạn “... Tay chung tay mở đường lên hạnh phúc, tuổi trẻ bên nhau bạt núi ngăn sông, tuổi trẻ mang theo bao ngàn mơ ước... tuổi trẻ chúng ta từ Cao, Bắc, Lạng, Thái, Tuyên, Hà. Từng giọt mồ hôi thấm vào đá núi, Cổng Trời hiên ngang mang dáng mẹ cao nguyên... Đường lên phía Bắc, đường sang phía Tây là con đường ý Đảng lòng dân, đường Bác Hồ đưa ta tới mùa Xuân”. Chiến công đã đi vào huyền thoại của các TNXP chiến thắng sự khốc liệt của đá trên đại công trường phá núi mở đường “Hạnh phúc” được kể lại như thế đấy!
Vậy là Hà Giang đã trải qua 2 thời kỳ đại công trường, lần thứ nhất 1959 đến 1965, khai mở con đường Hạnh phúc, lần thứ 2 từ 1998 đến 2006 tập trung giải quyết điện, đường, trường, trạm và đường vẫn là ưu tiên số một. Bây giờ đường ô tô đã đến được trung tâm 100% số xã nhưng đến thôn bản vẫn chỉ là đường mòn. Ông Sùng Đại Dùng, nguyên Bí thư Đoàn Thanh niên lao động công trường làm đường Hạnh phúc, năm nay đã hơn 80 tuổi, một cán bộ cả đời gắn bó với vùng cao, trước khi mất vẫn trăn trở, ông ước ao giá các bản có từ 30 hộ trở lên đều có đường ô tô đến nơi! Ngày nay, đây là con đường huyết mạch đưa khách du lịch từ thành phố Hà Giang lên Công viên Địa chất Toàn cầu - Cao nguyên đá Đồng Văn. Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc với những địa chỉ Cột cờ Lũng Cú, Dinh “Vua Mèo”, Phố cổ Đồng Văn, Đèo Mã Pí Lèng, Chợ tình Khau Vai thu hút hàng vạn người mỗi năm lên chiêm ngưỡng, khám phá. Con đường là biểu hiện sức mạnh của con người trước thiên nhiên, là niềm tự hào của sức mạnh đoàn kết.
HÀ PHƯƠNG THIỆN
Ý kiến bạn đọc