Nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến
BHG - Thực hiện chuyển đổi số (CĐS) với mục tiêu giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho xã hội, tỉnh đã đặt ra 2 trụ cột chính là: Đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) và phát triển dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) cùng với 3 đột phá về pháp lý hóa, số hóa và tự động hóa. nHỜ ĐÓ một số chỉ số về giải quyết TTHC trên Cổng dịch vụ công (DVC) Quốc gia đã vượt chỉ tiêu Chính phủ giao.
Một trong 5 nhóm tiện ích cốt lõi của Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025 tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06) là giải quyết TTHC và cung cấp DVCTT với mục tiêu cung cấp các DVCTT thiết yếu thuộc các lĩnh vực cư trú, hộ tịch, bảo hiểm xã hội, giáo dục, y tế, đất đai, lao động… giúp người dân, doanh nghiệp cắt giảm, đơn giản hóa TTHC. Sử dụng DVCTT, người dân được hưởng thụ dịch vụ thuận lợi, tiết kiệm chi phí, thời gian, tránh sự nhũng nhiễu, gây phiền hà từ cán bộ công chức; có thể giao dịch 24/24 giờ, tại bất cứ nơi đâu có kết nối Internet. Nhờ tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, thực hiện tốt công tác truyền thông, người dân và doanh nghiệp đều thấy được tiện ích cốt lõi Đề án 06 mang lại, từ đó dần thay đổi nhận thức, tư duy, hành động, sử dụng các DVCTT ngày càng nhiều và hiệu quả.
Cán bộ phường Minh Khai, thành phố Hà Giang hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến. |
Đến tháng 10.2024, tỷ lệ giải quyết TTHC trên cổng DVC Quốc gia đúng hạn và trước hạn của tỉnh đạt 97,8%/90% chỉ tiêu giao; tỷ lệ nộp hồ sơ DVCTT đạt 81,6%/50% chỉ tiêu; số lượng hồ sơ thanh toán trực tuyến trên cổng DVC Quốc gia đạt 88,3%/45% chỉ tiêu; tỷ lệ hài lòng trong tiếp nhận, giải quyết TTHC đạt 97,6%/90% chỉ tiêu giao. Năm 2024, tỉnh giảm thời gian giải quyết 265 TTHC; công bố danh mục 615 DVCTT toàn trình; chất lượng hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh xếp thứ 12/63 tỉnh, thành phố. Trong tháng 10, tổng số lượt người khám, chữa bệnh sử dụng thẻ Căn cước công dân thay thế thẻ BHYT đạt 96,5%. Có 64% đối tượng nhận trợ cấp hàng tháng chi trả qua tài khoản; 100% trường học, cơ sở giáo dục thu học phí và các khoản thu khác không dùng tiền mặt.
Đặc biệt, để nâng cao chất lượng phục vụ, giải quyết TTHC và cung cấp DVCTT, tỉnh triển khai 3 mô hình hiệu quả; trong đó thử nghiệm hệ thống phần mềm VNPT iGate, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phần mềm liên thông của Bộ Công an, đưa hơn 1.000 TTHC lên Cổng DVC Quốc gia, 193/193 xã có điểm DVC tại bộ phận “một cửa”; bổ sung 100 bộ máy tính kết nối Internet tại 100 điểm bưu chính xã hỗ trợ công dân thực hiện DVCTT. Đối với mô hình lưu trữ, chứng thực các giấy tờ, tài liệu điện tử phục vụ người dân, doanh nghiệp tham gia môi trường số, tỉnh đã số hóa hồ sơ 3 cấp; tài liệu được lưu trữ tại phần mềm VNPT iGate và kho lưu trữ của Văn phòng Chính phủ. Mô hình cung cấp DVCTT trên VNeID có chuyển biến tích cực, hệ thống phần mềm giải quyết TTHC của tỉnh đã tích hợp đăng nhập sử dụng tài khoản VNeID.
Bên cạnh kết quả nổi bật trên, một số nhóm chỉ số giải quyết TTHC trên cổng DVC Quốc gia của một số đơn vị chưa đạt chỉ tiêu giao. Cụ thể: Trong nhóm chỉ số công khai minh bạch, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh chỉ đạt 2,5%, Sở Giao thông vận tải 13,7%, Ban Dân tộc tỉnh đạt 20%. Nhóm chỉ số tiến độ giải quyết hồ sơ với chỉ tiêu giao từ 90% trở lên, nhưng Sở NN&PTNT mới đạt 73,6%, Sở Khoa học và Công nghệ 77,8%. Nhóm chỉ số cung cấp DVCTT với chỉ tiêu giao từ 80% trở lên, đến nay, Sở LĐ-TB&XH mới đạt 4,3%, Sở Giao thông vận tải 17,4%, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh đạt 30,2%. Nhóm chỉ số số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC với chỉ tiêu giao từ 80% trở lên, đến nay mới có 6 địa phương đạt gồm: Xín Mần, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng Su Phì và thành phố Hà Giang, các đơn vị, địa phương còn lại đều chưa đạt chỉ tiêu. Một số lĩnh vực, số lượng đối tượng tham gia nhận chi trả qua tài khoản còn thấp.
Để khắc phục hạn chế, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu của Đề án 06 năm 2024, các cấp, ngành có DVCTT cần rà soát, đơn giản hóa thủ tục, tái cấu trúc quy trình TTHC, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện 4 không (không giấy tờ, không tiền mặt, không tiếp xúc nếu pháp luật không quy định, không ai bị bỏ lại phía sau) và 5 tăng cường (tăng cường phân cấp, phân quyền; công khai minh bạch, đơn giản hóa TTHC gắn với kết nối, chia sẻ dữ liệu; đầu tư hạ tầng số; đối thoại và xử lý vướng mắc trong quá thực hiện; phát triển nhân lực, kiến thức, kỹ năng số đáp ứng yêu cầu mới).
Cung cấp DVCTT là một trong những chỉ số đo lường quan trọng trong phát triển chính quyền điện tử, tiến tới xây dựng chính quyền số, hướng đến phục vụ người dân tốt hơn. Việc nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng DVCTT không chỉ có sự nỗ lực của các cấp chính quyền mà mỗi người dân, doanh nghiệp cần nắm bắt và hiểu rõ các tiện ích cốt lõi của DVCTT mang lại để sử dụng hiệu quả.
Bài, ảnh: AN GIANG
Ý kiến bạn đọc