Bảo vệ và phát triển thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ
HGĐT- Cao Bồ (Vị Xuyên), một vùng đất nằm ở độ cao trên 1.000m so với mực nước biển, đồi núi hiểm trở. Nơi đây có những đồi chè bạt ngàn mầu xanh, ngày đêm sương phủ trắng xóa. Phải chăng vì thế mà trên lá chè của Cao Bồ lốm đốm có những điểm trắng giống như những giọt sương đọng lại trên cành lá, điểm tô cho thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ vốn đã nổi tiếng với hương vị thơm, ngon “Độc nhất vô nhị”. Nhưng mấy năm trở lại đây, thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ đang bị đe dọa do không có sự phối hợp giữa cơ sở chế biến chè và người dân địa phương.
Những đồi chè đang mùa thu hoạch:
Vào Cao Bồ những ngày này thật vắng người, tất cả lao động của các thôn đều lên nương thu hoạch chè. Theo chân người dân thôn Lùng Tao, dọc theo con đường mòn cách thôn 15 phút đi xe máy, mất thêm khoảng 5 đến 7 phút đi bộ nữa thì mới đến được đồi chè bát ngát mầu xanh. Những cây chè ở đây đều có chiều cao quá đầu người, có nhiều cây chè cổ thụ có tuổi thọ vài trăm năm trở lên cho nên để hái cho 1 cây chè thì phải cần 2 đến 3 người. Năm nay, do thời tiết khắc nghiệt rét kéo dài cộng thêm mưa nhiều, một số loại sâu bệnh xuất hiện gây hại cây chè làm cho búp chè kém phát triển, năng suất giảm đi so với mấy năm trước. Xã Cao Bồ hiện có 988 ha diện tích chè, riêng thôn Lùng Tao có 71 hộ gia đình, trung bình mỗi hộ đều có khoảng 2 đến 3 ha chè, trong đó hộ nhiều nhất có đến 7 ha. Mỗi ngày trung bình một người hái được 15 kg chè 1 tôm 2 lá; 5 kg nếu hái 1 tôm 1 lá. Hầu hết người dân hái về đều bán chè tươi với giá bán 19 nghìn/1 kg đối với tôm 2 lá, 45 đến 50 nghìn/1 kg đối với tôm 1 lá, một số ít gia đình sơ chế rồi bán chè khô với giá 80 nghìn/1kg tôm 2 lá và 220 nghìn/1kg chè tôm 1 lá. Sau khi hái chè xong, người dân trong thôn đem chè tươi đến điểm tập kết cách thôn 8 đến 9 km rồi bán cho thương lái Trung Quốc...
Phơi chè không đảm bảo vệ sinh thế này cần chấm dứt.
Cần chấm dứt tình trạng “Con sâu làm rầu nồi canh”:
Cao Bồ là xã có diện tích chè rộng lớn, nhưng các cơ sở chế biến chè trên địa bàn năm nay luôn trong tình trạng “đói” nguyên liệu. Hiện tại, xã có cơ sở chế biến chè của Hợp tác xã (HTX) Tiến Thành, được thành lập năm 2009, nhằm giải quyết việc làm cho lao động địa phương và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của quê hương. Xét về cơ sở vật chất chỉ có 1 máy sấy liên hoàn, diện tích sơ chế hẹp, quy trình sơ chế chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Những năm trước, HTX có 8 đến 15 công nhân thường xuyên làm việc nhưng năm nay do thiếu nguồn nguyên liệu để chế biến (mỗi ngày mua vào chỉ có 2 đến 3 tạ chè tươi) nên chỉ giải quyết được 3 đến 4 lao động. Mặt khác, chè Shan tuyết Cao Bồ của HTX Tiến Thành được cấp thương hiệu năm 2013 mục đích để bảo đảm lợi ích cho người dân và quảng bá trong nước cũng như xuất khẩu nước ngoài. Vậy mà khi bán cho thương lái Trung Quốc thì cái mà chúng ta vẫn gọi “thương hiệu” đó cũng theo gió bay đi. Bên cạnh đó, do không làm tốt công tác tổ chức tuyên truyền và sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương nên vô tình tiếp tay cho thương lái Trung Quốc vào thu mua nguồn nguyên liệu chè ở Cao Bồ. Phải chăng tất cả những yếu tố ấy đã đẩy người dân quay lưng lại với HTX Tiến Thành. Anh Đặng Văn Dũng, người dân thôn Lùng Tao cho biết: Mỗi ngày đi thu hoạch chè trên nương về, rồi mang chè tươi ra điểm tập kết cách nhà 5 đến 6 km, đến đó có một đầu nậu của thương lái Trung Quốc đứng ra thu mua. Còn HTX Tiến Thành, chúng tôi không hài lòng với cách sơ chế của HTX, không đảm bảo vệ sinh và trộn chè kém chất lượng làm giảm chất lượng của chè Shan tuyết Cao Bồ.
Trong khi đó, trao đổi với phóng viên, ông Đặng Văn Hà, một thành viên trong HTX Tiến Thành cho biết: Điều làm cho HTX suy nghĩ là sản phẩm chè khi xuất sang Trung Quốc thì không còn mang thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ nữa. Vẫn biết đây là nhiệm vụ để giới thiệu đặc sản của Cao Bồ nói riêng và Hà Giang nói chung cho bạn bè Quốc tế, nhưng đến nay chúng tôi vẫn chưa giải quyết được, việc HTX thiếu nguyên liệu chế biến là do xuất phát từ nhu cầu thị trường mua - bán, giá cả mà HTX mua cho người dân ngang bằng với giá của các đầu nậu thương lái Trung Quốc, có nhiều lúc còn cao hơn nhưng do những đầu nậu đón đường để mua chè của người dân gây ra khó khăn cho HTX. Trong thời gian tới HTX sẽ cố gắng khắc phục và làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong sơ chế chè. Còn về vấn đề trộn chè kém chất lượng được ông Hà khẳng định là không có. Chỉ có một lần HTX thiếu nguyên liệu đã mua chè Shan tuyết Thượng Sơn chất lượng tốt, có thể người dân nhầm tưởng là chúng tôi trộn chè kém chất lượng. Rõ ràng sự xâm nhập của thương lái Trung Quốc đã gây ra sự lũng đoạn trên thị trường chè ở Cao Bồ (trước đây thu mua cả 2 loại chè 1 tôm 2 lá và 1 tôm 1lá, nhưng giờ chỉ thu mua 1 tôm 2 lá) làm mất đi thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ khi xuất khẩu, đồng thời tạo nên khoảng trống trong mối liên kết giữa người dân và cơ sở chế biến chè tại địa phương.
Tạo dựng được tên tuổi cho sản phẩm là một điều rất khó, nhưng để giữ được thương hiệu lại càng khó hơn. Để làm được điều đó, trước hết các cơ sở chế biến chè địa phương cần có một chiến lược kinh doanh hợp lý, tạo niềm tin cho người dân như tuyên truyền, vận động người dân quy tụ chè về một mối, đảm bảo vệ sinh môi trường trong chế biến đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương có biện pháp cụ thể để bảo vệ và quảng bá thương hiệu chè Shan tuyết Cao Bồ, đừng để “Con sâu làm rầu nồi canh”.
Ý kiến bạn đọc