Công tác DS-KHHGĐ Việt Nam, chặng đường hình thành và phát triển
HGĐT- Từ Quyết định 216/CP năm 1961 về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch đến năm 1975 triển khai công tác Dân số-KHHGĐ, đây là thời kỳ chiến tranh nên chương trình Dân số/kế hoạch hoá gia đình (DS/KHHGĐ) chưa đạt được mục tiêu mong muốn.
|
Đến năm 1993, đứng trước sự gia tăng dân số quá nhanh, một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế- xã hội; Hội nghị lần thứ 4, BCH T.Ư Đảng (khóa VII) quyết định ban hành Nghị quyết chuyên đề về chính sách DS/KHHGĐ. Nghị quyết đưa ra 5 quan điểm cơ bản với mục tiêu tổng quát là “ Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh tạo điều kiện có cuộc sống ấm no, hạnh phúc” và mục tiêu cụ thể mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con... Ngày 21.6.1993, Chính phủ ban hành Quyết định 42/CP quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ ban Quốc gia DS/KHHGĐ, từ đó tổ chức bộ máy được kiện toàn từ T.Ư đến cơ sở. Hệ thống làm công tác được bố trí đến tận thôn bản, tổ dân phố để công tác tuyên truyền và cung cấp dịch vụ đến tận người dân. Từ Nghị quyết T. Ư (khoá VII), công tác DS/KHHGĐ có một định hướng rõ ràng, bước đi phù hợp. Sau 30 năm hoạt động công tác DS/KHHGĐ đã có một cơ quan trực thuộc Chính phủ, chuyên trách quản lý về DS/KHHGĐ. Hệ thống Uỷ ban DS/KHHGĐ cấp tỉnh, huyện được tăng cường, cấp xã có Ban dân số và cán bộ chuyên trách, một mạng lưới cộng tác viên dân số tại thôn bản, tổ dân phố được hình thành, công tác tuyên truyền vận động được tăng cường đẩy mạnh với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các ban, ngành, đoàn thể và sự tham gia tích cực của người dân với phương thức hoạt động là “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để vận động và cung cấp các phương tiện tránh thai. Đội ngũ cán bộ dân số xã và cộng tác viên thôn bản, tổ dân phố thực sự là lực lượng nòng cốt quyết định thành công của công tác DS/KHHGĐ.
Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện DS/KHHGĐ chững lại và giảm sút, một trong những khó khăn giai đoạn này là “sự kiện” Pháp lệnh Dân số ra đời 9.1.2003 một số bộ phận người đã hiểu chưa đúng nội dung điều 10 của Pháp lệnh cho rằng từ nay đẻ thoải mái.Đến năm 2001, có sự biến động lớn về tổ chức bộ máy làm công tác DS/KHHGĐ là Uỷ ban Quốc gia DS/KHHGĐ sáp nhập với Uỷ ban Chăm sóc trẻ em Việt Nam và bổ sung thêm chức năng gia đình thành Uỷ ban Dân số-Gia đình và Trẻ em. Đến năm 2008, Ủy ban Dân số- Gia đình và Trẻ em giải thể, chức năng quản lý nhà nước được giao về Bộ Y tế. Trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến 2008 nhiều khó khăn thách thức liên tục được đặt ra cần được giải quyết kịp thời. Một bộ phận người dân trong đó có cả cán bộ đảng viên hiểu sai cho rằng công tác dân số đã hoàn thành.
Dù vậy, trong 50 năm qua, công tác DS/KHHGĐ vẫn đạt nhiều thành công. Tỷ suất sinh, số con trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 6,4 con vào năm 1960, xuống còn 2,1 con, năm 2010. Đây là cuộc cách mạng thực sự trong công tác DS/KHHGĐ, tỷ suất sinh giảm, tuổi thọ ngày càng tăng, cách đây 50 năm tuổi thọ trung bình của người Việt Nam chỉ đạt 40 tuổi trong khi đó tuổi thọ trung bình thế giới là 47 tuổi, hiện nay tuổi thọ trung bình thế giới mới đạt 68 tuổi, tuổi thọ trung bình Việt Nam là 73 tuổi. Từ việc thực hiện tốt công tác dân số đã góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
Cùng với sự phát triển và trưởng thành của công tác DS/KHHGĐ toàn quốc, công tác DS/KHHGĐ ở tỉnh ta cũng đã có được những thành quả quan trọng. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số đã được kiện toàn từ tỉnh đến thôn bản. Hiện bộ máy làm công tác DS/KHHGĐ cấp tỉnh, cấp huyện đã hoàn thiện về bộ máy tổ chức, đáp ứng đuợc yêu cầu nhiệm vụ. 100% xã, phường, thị trấn đều có cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm làm công tác dân số. 100% thôn, bản, tổ dân phố có cộng tác viên dân số hoạt động. Ngoài việc kiện toàn bộ máy tổ chức, công tác DS/KHHGĐ cũng nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự vào cuộc của các ngành, các cấp. Do đó, công tác DS/KHHGĐ tỉnh ta đã đạt được những kết quả đáng kể, đến năm 2010: Tỷ lệ cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại: tăng từ 23% năm 1991 lên trên 70% (2010); tỷ suất sinh thô giảm từ 38,83%o năm 1991 xuống còn 20,2%o năm 2010; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống chỉ còn 1,42% (2010)...
Mục tiêu trong giai đoạn tới của công tác DS/KHHGĐ đó là tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược Dân số/Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14.11.2011. Chiến lược tập trung vào 5 quan điểm cơ bản, 11 mục tiêu cụ thể, 17 nhóm chỉ tiêu, 7 giải pháp, 13 dự án. Chiến lược được thực hiện theo hai giai đoạn ( 2011 – 2015) và (2016 – 2020). Nội dung của công tác Dân số-Sức khỏe sinh sản giai đoạn tới không còn theo mục tiêu duy nhất trước đây là giảm sinh mà giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản tập trung nâng cao chất lượng dân số và cải thiện tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em, phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và khảo sát tỷ số giới tính khi sinh. Tuy nhiên, đối với tỉnh Hà Giang, việc triển khai chiến lược trong giai đoạn 2011- 2015 tập trung cho giảm sinh, đồng thời nâng cao chất lượng dân số đó là triển khai các mô hình can thiệp. Để tỉnh ta đạt được mục tiêu trên, cần có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cũng như sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn xã hội, đặc biệt là cần phát huy vai trò của đội ngũ như người làm công tác dân số từ tỉnh đến thôn, bản.
Ý kiến bạn đọc