Hoa tím trên vùng đất khát khát

Bút ký: Cao Xuân Thái

14:23, 23/02/2007

“Tháng ba mùa con o­ng đi lấy mật...”

Câu hát luôn gợi lên trong tôi bao nhiêu kỷ niệm. Mùa xuân, trời đất giao hòa, lộc non hé mở, mùa ăn chơi, mùa lễ hội của con người, lại là mùa lao động, mùa làm việc của con o­ng.


Có anh bạn khi nghe bài hát như chợt nhớ ra nói với tôi: “Đang mùa mật o­ng, ngày mai về quê, cậu lấy cho tớ một ít”. Tôi cười: “Cậu muốn có mật o­ng đúng mùa thì xin đợi đến cuối năm, khi cái lạnh tràn về se sắt lòng người lúc ấy mới là mùa mật o­ng”. Anh bạn tròn xoe mắt hỏi lại. “Sao lạ vậy?”. Tôi nói miền xuôi và miền núi đã khác nhau lắm rồi, mùa con o­ng đi lấy mật của bài hát lại ở tận Tây Nguyên thì càng khác nhau xa là lẽ hiển nhiên. Mùa con o­ng đi lấy mật trên cao nguyên xứ đá quê tôi là cuối mùa thu, mùa hoa bạc hà nở.

 

Quê tôi đá mênh mông ngút ngát, cuộc sống con người chất chồng bao nỗi gian truân nhọc nhằn, cái nương trồng ngô đá nhiều hơn đất, hạt bắp bỏ xuống phải tưới đến chín mươi chín giọt mồ hôi mới nảy mầm ra lá, cây ngô lớn lại phải đủ chín mươi chín giọt mồ hôi mới phun râu trổ cờ, rồi chín mươi chín giọt mồ hôi nữa mới cõng bắp trên lưng, rồi bắp về nhà mồ hôi vẫn không ngừng chảy. Giọt mồ hôi rơi hứng đầy cả bát ăn nhưng đói nghèo vẫn không vơi bớt bao nhiêu.

 

Hoa bạc hà có một đời sống khác hẳn, những sườn núi cao trơ trụi, các cây khác hầu như không thể lên được, thì hoa bạc hà lại rất tốt tươi, phủ lên đá xám một màu xanh đầy sức sống. Có một câu nói đại ý thế này, cuộc đời không lấy đi của người ta cái gì mà không trả lại cho người ta cái gì. Có lẽ vậy, cây bạc hà chính là sự trả lại của trời đất cho rất nhiều cái mà thiên nhiên đã lấy đi.

 

Cây bạc hà thuộc loại thân cỏ, lá mọc so le hình răng cưa. Cây nảy mầm từ mùa xuân, nhưng phải đến mùa thu mới ra hoa. Hoa bạc hà hình đuôi chồn, xung quanh gắn hàng ngàn cái chuông nhỏ. Mỗi quả chuông chứa rất nhiều mật. Quả chuông mở ra, mùa hoa nở, chính là mùa con o­ng đi lấy mật...

 

Hoa bạc hà nở dâng tràn màu tím lên bạt ngàn đá xám thâm u, bầy o­ng thợ kéo đến hàng đàn, mải mê hút mật. Một cơn gió tràn qua, bầy o­ng vút bay lên, nhiều cái túi mật đã đầy nặng. Định hướng một lát rồi chúng chầm chậm bay về tổ. Từ sáng sớm tới chiều tối, vùng có hoa bạc hà luôn rù rì náo nhiệt trong ngày hội của bầy o­ng.

 

Tôi được bố dẫn vào rừng tìm gỗ làm đõ o­ng. Bố nói con o­ng thích cái đõ làm từ thân cây khô đã bị mối hoặc kiến đục rỗng ở giữa, chỉ cần lấy về sửa sang tí chút chúng thích hơn là những cái đõ đóng thành hộp như hình bao diêm. Nhưng đõ làm bằng thân cây rất khó lấy mật mà mật cũng không nhiều. Gỗ làm đõ o­ng thường là gỗ tạp, không có mùi. Đõ o­ng đóng thường có chiều dài hai gang rưỡi, rộng hai gang và cao một gang rưỡi, mặt trên cùng xếp một hàng thang gọi là cầu, mỗi cầu có chiều rộng bằng hai đốt ngót tay. Một đõ có thể làm từ mười đến hai mươi cầu, tuỳ theo độ to nhỏ của mỗi đõ. Đõ đóng xong đem phơi nắng ít nhất ba ngày cho bay hết mùi gỗ, rồi đi tìm phân trâu về trét cho kín các khe hở xung quanh. Tiếp tục phơi nắng một ngày cho phân trâu khô kiệt là có thể nuôi o­ng được. Đõ mới, bố tôi thường không làm đủ số cầu, mà lấy một vài cầu của đõ cũ đã có sáp đặt xen kẽ vào nhau. Bố nói, phải làm thế nào cho con o­ng thấy là nơi này ấm áp có thể ở được thì nó mới ở. Lần đó tôi và bố làm được bốn cái đõ. Xong xuôi đặt ra góc vườn, bố nói ngày mai hai bố con cùng đi bắt o­ng soi. Sáng hôm sau tôi đã thấy bầy o­ng bay về kín một khoảng vườn ở đầu nhà, thì ra hai đõ đã có o­ng tìm về ở. Bố tôi kể một kỷ niệm là có lần thấy đàn o­ng bay vù vù trên đầu bố tung cái khăn dệt bằng vải lanh vào bầy o­ng, một lúc bầy o­ng bám đen cái khăn và rơi xuống đất. Bố ra bới trong đống o­ng bắt lấy con o­ng chúa đem về, bầy o­ng bay theo làm đen cả một góc trời.

 

Làm được đõ tốt chỉ là một khâu trên lộ trình dài nuôi o­ng, đõ tốt không có nghĩa là phải đẹp về chất liệu, điều quan trọng là đàn o­ng thích ở, khi đã ở rồi không muốn đi nơi khác nữa.

 

Trước mùa mật người nuôi o­ng thường mua các đàn o­ng do người ta bắt trên rừng về, hoặc đi bắt o­ng soi để đàn o­ng kéo về. Những vùng biên giới như Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh: Người nuôi o­ng còn có thể mua đàn o­ng của nước bạn Trung Quốc, o­ng thợ của họ to hơn giống o­ng địa phương, lấy được nhiều mật hơn và chất lượng không có gì khác nhau.

 

Sau mùa mật, để giữ được đàn o­ng cho đến mùa mật năm sau là cả một vấn đề. Đầu tiên là việc chia đàn, khi một tổ có hai con o­ng chúa, thì tổ đó thế nào cũng chia đàn. Để đàn không bị chia, người nuôi o­ng phải thường xuyên kiểm tra, nếu thấy mọc mũ chúa, thì phải phá bỏ. Sau nữa là bầy o­ng bị đói chúng cũng bỏ đi. Đõ o­ng phải thường xuyên được vệ sinh, nếu có kiến hoặc gián đàn o­ng cũng không ở... Năm trước có mười đõ o­ng, năm sau giữ được năm sáu đã là một thắng lợi lớn.

 

Dưới cái nắng vàng óng ả cuối thu tôi đến chợ phiên Đồng Văn, trên nền xi măng giữa chợ có một dãy dài những can mật o­ng được đồng bào bày bán. Vài con o­ng lười biếng không chịu đi tìm hoa cứ bay quẩn quanh can mật, có cơ hội là sà ngay vào hút lấy thứ mật đã được làm sẵn. Anh bạn đi cùng mở nắp can, lấy ngón tay quệt một ít mật đưa lên miệng. “Mật năm nay được lắm, không lẫn các hoa khác, chắc vụ mật năm nay sẽ được nhiều” - Anh bạn nói mà ngón tay vẫn không rời khỏi miệng.

 

Một ông già đứng chắn trước mặt tôi, ông lấy trong quẩy tấu ra một chai mật đưa về phía tôi. “Cầm hộ chú cái này về biếu bố”. Tôi biết chai mật đó được quay lần đầu trong mùa mật. Số mật của lần quay đầu thường rất ít, màu mật lại xấu, chưa rõ được màu đặc trưng của hoa bạc hà. Cái quý của mật quay lần đầu không phải ở số lượng ít mà ở chính giá trị đặc biệt của nó. Mật o­ng quay lần sau có giá trị là năm, thì mật o­ng quay lần đầu sẽ có giá trị là mười. Có lẽ vì vậy mà mật o­ng quay lần đầu ít khi thấy người ta đem bán, thường là để dùng trong nhà hoặc làm quà biếu.

 

Mật o­ng bạc hà là loại bổ dưỡng, dễ dùng, có nhiều công dụng chữa bệnh trong dân gian. Lấy một ít mật o­ng, 10 lát gừng, 10 giọt chanh tươi cho vào chén đem hấp cách thủy 10 phút rồi ngậm chữa bệnh viêm họng rất hiệu nghiệm. Nếu bị bỏng hoặc trầy xước da lấy mật o­ng bôi lên vết thương rất mau lành, da non ra rất nhanh và quan trọng hơn là vết thương không hề để lại sẹo. Buổi tối, trước khi đi ngủ ngậm mật o­ng sẽ tránh được các bệnh về răng miệng và vòm họng. Người đi làm về mệt chỉ cần uống một ít mật o­ng pha với nước ấm sẽ thấy người khỏe lại, cái mỏi cái mệt trốn đi đâu mất. Mùa đông giá rét đi ra khỏi nhà uống một ít mật o­ng sẽ không bị viêm họng. Mật o­ng kết hợp với nghệ đen, bột tam thất chữa được bệnh dạ dày và đường ruột, còn sữa o­ng chúa bồi bổ thần kinh và trí lực rất tốt...

 

Trên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc ngoài mật o­ng bạc hà có màu vàng ánh xanh, còn mật hoa tam giác mạch có màu hồng đỏ, mật hoa vải màu nâu, mật hoa ngô màu vàng... ngày xưa còn có mật hoa thuốc phiện màu cánh gián là một loại dược liệu rất quý, hiếm...

 

Mùa mật khoảng trên dưới một tháng phụ thuộc vào mùa nở của bạc hà. Số lượng thu được nhiều hay ít lại phụ thuộc vào thời tiết, nếu nắng ấm, ít sương vào lúc hoa bạc hà nở rộ thì ba ngày có thể quay lấy mật một lần, còn nếu trời nhiều sương hoặc rét đậm thì phải một tuần hoặc mười ngày mới được quay một lần.

 

Anh Nguyễn Mạnh Hải ở xóm Lài Cò xã Đồng Văn mỗi năm nuôi khoảng trên hai mươi tổ, trung bình số mật thu được sau mỗi vụ khoảng trên dưới ba mươi can hai mươi lít. Với giá thị trường hiện nay là bảy mươi ngàn đồng một lít, mỗi năm anh có bốn mươi triệu đồng cầm chắc trong tay. Bây giờ anh đã thành giàu có rồi, nhà cửa khang trang, tiện nghi đầy đủ, anh còn mua đất ở trung tâm huyện để làm nhà ở cho hai đứa con đang học phổ thông.

 

Chị Trương Thị Thúy ở gần khu phố cổ Đồng Văn vừa xây xong ngôi nhà bốn tầng to như một khách sạn. Trong nhà chị vào mùa o­ng có tới vài trăm can mật, chưa tính những can mật mà chị mua về để bán lại và cả những can người khác gửi chị bán hộ. Thỉnh thoảng lại có một chiếc xe tải đậu trước cửa nhà khuân từng can một rồi lặc lè chở về xuôi. Khác với anh Hải, chị có cách làm mới, đành rằng với một người chỉ có khả năng nuôi được trên dưới hai mươi đõ o­ng, nhưng chị đã biết kết hợp sức của nhiều người. Chị mua về vài trăm tổ, chị nhờ dân chăm sóc hộ, tiền công chị trả là phân đạm, dầu, muối, lương thực... những vật dụng phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của đồng bào. Đến mùa chị đem máy đi quay lấy mật, quay xong chị gửi lại nhờ trông hộ, hôm sau thuê xe lên chở về, mỗi lần quay như vậy ít nhất cũng được hai, ba mươi can. Tôi nhẩm tính, mỗi mùa hoa bạc hà, không kể chi phí, chị Thủy thu được từ mật o­ng trên dưới 100 triệu. Chị cười, mong trời mưa thuận gió hòa; mật o­ng hoa bạc hà thực sự là đặc sản của vùng cao Hà Giang. Hôm ra chợ tôi gặp một người bạn của bố: Thào Mí Sính, ông hào hứng chỉ vào cái xe máy đắt tiền vừa mới mua: “Tiền bán mật o­ng vụ vừa rồi đấy!”, ông cười và kéo tôi đến hàng thắng cố uống bát rượu mừng cái xe mới.

 

Chi phí cho một tổ o­ng không lớn, khoảng một trăm năm mươi ngàn tiền mua o­ng, sáu mươi ngàn tiền làm đõ. Những năm được mùa o­ng, một tổ có thể thu được hơn ba can hai mươi lít mật, tính ra tiền được hơn năm triệu đồng.

 

Trên đây là một số gia đình tôi đã gặp và biết rõ họ lao động cần cù và giàu lên từ mật o­ng bạc hà. Trên cao nguyên đá rộng lớn đến hàng vạn cây số vuông, gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, mặc dù thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng lại là lợi thế để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo riêng nguồn lợi từ mật o­ng hằng năm là mấy vạn lít, thật là con số đang kể. Những chương trình mà tỉnh Hà Giang chỉ đạo: Chăn nuôi bò, dê thành hàng hóa, đã đem lại hiệu quả rất thiết thực, nếu có sự chỉ đạo, quy hoạch... thì chương trình trồng cây dược liệu, phát triển o­ng bạc hà... sẽ là cơ sở để đồng bào các dân tộc thoát nghèo. Cũng như một số huyện vùng thấp: Bắc Quang, Vị Xuyên, người nông dân đã giàu có lên từ chương trình cam sạch và chè đặc sản...

 

Khi vào vụ o­ng, người dân quê tôi thường kéo nhau lên núi tìm mật o­ng rừng. o­ng làm tổ trong hốc đá, ai tìm thấy trước thì đánh một cái dấu bằng vôi vào nơi dễ thấy để người sau đến biết rằng tổ o­ng này đã có chủ. Chỉ cần như vậy mà bao đời nay không ai xâm phạm của ai. Khi sáp o­ng ủ đầy mật thơm thì người ta đem xà beng, quẩy tấu, thùng nhựa lên cái tổ đã đánh dấu cạy lấy đem về. Họ chỉ lấy chỗ sáp có mật, chỗ có nhộng để o­ng sinh con, duy trì đàn cho đến năm sau. Nhiều người biết sáp o­ng rừng là một loại dược liệu quý để bồi bổ sức khỏe và chữa bệnh, nhưng đã thành lệ rồi, không ai dám vi phạm, không ai dám lấy hơn...

 

Mấy năm gần đây dọc đường quốc lộ lên Đồng Văn, Mèo Vạc thường xuất hiện những cơ sở nuôi o­ng lưu động, họ mang o­ng từ nơi khác đến bằng xe ô tô, họ căng bạt làm lán tại vùng có nhiều hoa bạc hà, họ đặt o­ng gần lán, ít thì vài chục tổ, nhiều thì vài trăm tổ. Hết mùa mật họ lại đem o­ng đi nơi khác. Lúc đầu có người đến nhà trưởng bản tâm tình, lo sợ cho đàn o­ng của mình và đưa ra ý kiến đề nghị họ chuyển đi nơi khác, song nhiều người cùng chung ý kiến là hoa trên núi rất nhiều, số lượng o­ng có đông đến bao nhiều vẫn không tài nào lấy hết được mật hoa. Ý kiến đã được chứng minh, vụ mật năm đó không hề giảm mà còn tăng thêm. Năm sau hoa bạc hà lại nở, cả một vùng ngăn ngắt tím...

 

Mùa hoa nữa lại về, cả một vùng rộng mênh mông, bạc hà hé nụ, treo đầy những quả chuông duyên dáng. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi màu xanh kia sẽ chuyển sang màu tím ngan ngát nồng nàn.

 

Mùa con o­ng đi lấymật đang đến rất gần.


Ý kiến bạn đọc


Cùng chuyên mục

Xuất khẩu lao động ở Xín Mần
Là huyện thuần nông, Xín Mần có diện tích tự nhiên 580,99 km2, địa hình nơi đây chủ yếu là đồi, núi có độ dốc lớn và chia cắt mạnh, khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt về mùa khô, nhiều nguồn nước bị cạn kiệt nên ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất của nhân dân.
30/01/2007
Ra mắt Trung tâm Dạy nghề cụm 4 huyện vùng cao phía Bắc
Dạy nghề chiếm vị trí quan trọng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là gắn việc dạy nghề với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
26/12/2006
Đào tạo nghề trồng nấm cho người khuyết tật
Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với Hội người Khuyết tật tỉnh khai giảng lớp đào tạo nghề nuôi trồng nấm cho 9 học viên là hội viên
26/12/2006
Thực trạng quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên, môi trường ở Yên Minh
Những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, việc bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn huyện Yên Minh gần như bị bỏ ngỏ.
26/01/2007