Tết ở quê núi
(HGĐT)- Quẹo phải nơi cây gạo cổ thụ tôi men theo rìa làng thôn Then mà đi. Sau cánh rừng, là những ngôi nhà sàn xinh xắn. Dọc bìa rừng, từng đàn trâu thong rong gặm cỏ. Làng quê thanh bình hiện lên trong câu hát ru của mẹ. Một dòng suối cuối mùa khô sâu chặn ngang dòng suy tưởng. Bên túp lều ven suối, cụ già ngoài 70 tuổi, tóc bạc, áo chàm, chỉ cho tôi chiếc cầu khỉ... “Đi Hương Sơn hả, cứ đường to mà đi... cháu nhá”.
Thế mạnh lớn nhất để dân tận dụng làm kinh tế trong những năm qua là rừng và cam, quýt, kèm theo chăn nuôi trâu, cá. Phó Chủ tịch xã, Nguyễn Anh Tuấn cho biết, ở xã có rất nhiều “triệu phú” từ trồng cam quýt. Điển hình là ông Nông Đức Toản ở thôn Sơn Thành có trên 5.000 cây cam cho thu hoạch, mỗi năm thu tiền trăm triệu nhẹ như “lông hồng”. Còn người thanh niên trẻ bị “khuyết” một tay do ảnh hưởng chất độc màu da cam Hoàng Văn Đường, ở thôn Nghè, cũng thu vài chục triệu mỗi năm về trồng cam là chuyện “thường” tại xã... Số liệu mà tôi ghi nhận, năm 2006, mức thu nhập bình quân đầu người ở Hương Sơn là 4,5 triệu đồng/người/năm. Mức ăn đầu người là 393 kg thóc. Cả xã có 120 hộ khá, 176 hộ trung bình (tiêu chí mới). Nhìn chung, nhà tạm là hết, đặc biệt hơn nữa, đất núi này có tới 90% dân số, số hộ, có và ở “nhà sàn”. Và không có hiện tượng “bán nhà sàn” để đòi được hưởng “134 CP” như ở một số xã. Trong cái không khí ấm áp ấy, cô cán bộ văn hóa trẻ xinh xắn người dân tộc Dao áo dài tên Luân bật nói: “Tối nay, anh cứ ở xã đi hát cọi, hát lượn, sáng ngày 3 tết, ở trung tâm này sẽ có Hội tung Còn, hát “bè” nữa”. Câu chuyện cô Luân kể là cả một truyền thuyết của tình yêu đôi lứa ngày Xuân. Trong hội, từng đám trai, gái kết thành 2 phe, vừa tung còn, vừa hát đối. Hát đối, hay còn xem như một lối hát “nói” mang tính “đố” và “giải đố”. Hai bên cứ hát, cứ đối, cứ ra vế đối, rồi cứ hát, hát cho vế bên kia không đối được nữa là thua đối. Trong các buổi hát như thế thường có các bậc cha, mẹ đi cùng để mách đường, chỉ lối cho các vế đối. Và cũng đồngnghĩa với việc dạy bảo con cháu gìn giữ bản sắc của cha ông để lại là những nét gia phong mẫu mực, cần gìn giữ, bảo tồn cho con, cháu muôn đời những nét tương thân, tương ái, nếp sống tình làng, nghĩa xóm, lúc vui cũng như lúc buồn.
Đang vui chuyện, tôi hỏi Luân: “Bây giờ lấy vợ người Dao, anh phải mất bao nhiêu bạc trắng”? Cô cười, đưa tôi chén trà đặc “không lấy bạc nữa đâu, lạc hậu lắm rồi. Bây giờ, Hương Sơn đã thực hiện theo quy ước nếp sống mới”. Đưa vào tay tôi chiếc bánh 6 cạnh làm từ gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, gói bằng lá rừng, Luân giải thích: “Những cạnh vuông của bánh lá tượng trưng cho sự vuông tròn, thanh bình. Màu xanh của bánh lá tượng trưng cho sự yên lành. Màu hồng, là màu của cuộc sống hạnh phúc. Màu đỏ, là màu của khát vọng vươn tới cuộc đời ấm no...”. Dừng lại đôi chút, dúi vào tay tôi chén rượu nồng... “Muốn lấy vợ người Dao hả, thì ở lại đây, tối nay cùng em đi... hát cọi”. Nói rồi, cái dáng thanh thoát và đôi má ửng hồng của Luân lẫn vào trong cái đám hội đông đúc, rạo rực sắc màu, trong đám hội ấy, già trẻ, trai gái, ai nấy đền vui. Tôi nhìn theo cô gái trẻ mỉm cười, tết ở quê núi, năm nay thật là ấn tượng.
Ý kiến bạn đọc