Thực trạng học sinh bỏ học ở các huyện Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc - vấn đề đáng quan tâm
(HGĐT)- Theo báo cáo tổng hợp về số học sinh bỏ học của phòng Giáo dục các huyện Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc cho thấy: Số học sinh bỏ học trong những năm học gần đây trên địa bàn các huyện này đang là vấn đề đáng quan tâm.
Tính từ năm học 2004 - 2005 cho đến năm học 2007 - 2008, huyện Mèo Vạc có tổng số 877 em bỏ học, trong đó hệ Tiểu học (TH) có 371 em và Trung học cơ sở (THCS) là 506 em; huyện Đồng Văn, hệ TH có 298 em và THCS là 318 em; huyện Yên Minh, hệ TH là 606 em và hệ THCS là 417 em, riêng năm học 2007 - 2008 hệ THCS của huyện Yên Minh có tới 249 em bỏ học. Nhìn vào những con số có thể thấy, tình trạng học sinh bỏ học ở 2 cấp TH và THCS ở các huyện trên đang là vấn đề đáng quan tâm cho sự nghiệp giáo dục đối với các huyện trên nói riêng và tỉnh ta nói chung.
Tìm hiểu về thực trạng học sinh bỏ học tại các huyện, chúng tôi được lãnh đạo huyện, phòng Giáo dục các huyện trên cho biết: Chủ yếu là do đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng sâu, xa, biên giới còn nhiều khó khăn nên không ít các em trong độ tuổi đi học bị gia đình bắt phải ở nhà làm nương rẫy và chăn thả gia súc... thậm chí có những gia đình bắt các em nghỉ học để sang bên kia biên giới làm thuê cùng cha mẹ. Có nhiều em trong độ tuổi học sinh, song lại là lao động chính trong gia đình. Sự lạc hậu và phong tục, tập quán cũng làm cho các em phải bỏ học. Mặc dù nhiều năm trở lại đây, cùng với sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, sự giúp đỡ của địa phương, cuộc sống của đại bộ phận đồng bào vùng dân tộc thiểu số đã từng bước được nâng lên, không ít gia đình đã có của ăn, của để. Về cơ sở vật chất các cấp học, trường, lớp học đã và đang tiếp tục được trang bị và kiên cố hoá. Song phong tục, tập quán ở không ít địa phương đã thực sự cản trở đến quá trình học tập của con em họ. Có những gia đình chưa thực sự coi trọng đến việc học cũng như tương lai của con em mình mà chỉ cần cho con em mình đi học để cho biết mặt chữ là được và cái lý của một số gia đình cũng thật khó giải thích: ‘’Đi học cũng phải ăn, mà không đi học cũng phải ăn’’... Thậm chí không ít các em đang theo học, song chỉ sau thời gian nghỉ hè hoặc sau mấy ngày nghỉ Tết đã phải bỏ học vì chuyện lấy vợ gả chồng. Hiện tượng học sinh bỏ học để lấy chồng, lấy vợ xảy ra khá phổ biến đối với học sinh vùng cao.
Tại các buổi làm việc với chúng tôi, lãnh đạo huyện và phòng Giáo dục các địa phương trên đều khẳng định: Cấp ủy, chính quyền cũng như ngành Giáo dục huyện thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các gia đình, học sinh bằng nhiều biện pháp, nhằm hạn chế tối đa việc học sinh bỏ học, trong đó có cả biện pháp buộc giáo viên nâng cao chất lượng dạy và học. Chất lượng dạy học thấp, học sinh không theo kịp chương trình nên không hứng thú với việc học, thậm chí sợ mỗi khi phải đến lớp. Nhiều em do sức học yếu từ các bậc học dưới, tự thấy không theo kịp hoặc có học tiếp cũng không thể lên lớp được cũng là một trong những yếu tố dẫn đến các em chán rồi bỏ học. Hiện nay, các huyện vẫn tiếp tục kiểm tra, đánh giá lại chất lượng giáo viên để có các biện pháp khắc phục tình trạng giáo viên yếu kém dẫn đến học sinh “ngồi nhầm lớp”. Điển hình là huyện Đồng Văn, năm học 2007 – 2008, huyện đã cho hàng chục giáo viên yếu kém nghỉ chế độhoặc chuyển sang làm việc khác. Song thực tế ở các huyện trên cho thấy, không ít các biện pháp để kéo học sinh trở lại lớp như: Giáo viên đi vận động; tổ chức cam kết giữa chính quyền địa phương, gia đình và nhà trường song tỷ lệ học sinh bỏ học trở lại lớp rất thấp. Không thể coi việc hàng trăm học sinh bỏ học trong một kỳ học là chuyện bình thường và cũng không thể quy kết hết trách nhiệm cho ngành Giáo dục, song trước thực tế học sinh bỏ học ngày càng nhiều thì chính những người làm công tác giáo dục cũng cần phải thay đổi cách nghĩ, cách làm. Nói như vậy để thấy: Muốn khắc phục tình trạng này cần phải có những giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Giáo dục, chính quyền địa phương và các cấp, ngành liên quan. Đặc biệt, cần coi trọng việc xã hội hoá giáo dục là nhiệm vụ chung của toàn dân.
Cùng với việc thực hiện biện pháp nâng cao chất lượng học sinh là công tác XĐGN, nâng cao đời sống cho nhân dân. Công tác tuyên truyền, vận động người dân thay đổi tư duy về việc cho con em đi học cũng cần được thực hiện thường xuyên. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục cũng cần tiếp tục được đầu tư đúng mức, để khắc phục những hạn chế về khoảng cách từ điểm trường đến trường chính. Một vấn đề quan trọng là hiện nay sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất lớn. Thông qua các chương trình, dự án để hỗ trợ phát triển hạ tầng, KT-VH giáo dục và cũng không thể phủ nhận, về cơ bản đời sống cũng như sự nghiệp giáo dục của các huyện vùng cao đã có những thay đổi nhờ sự đầu tư ấy. Chính vì vậy, việc học sinh bỏ học với số lượng lớn đã và đang xảy ra ở các huyện trên thì không thể coi đó là việc bình thường, đây chính là trách nhiệm của cấp quản lý và của cấp ủy, chính quyền mỗi địa phương.
Ý kiến bạn đọc