LƯỢC GHI THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XV (NHIỆM KỲ 2010 - 2015)
* Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh, 5 năm qua, các cấp Mặt trận và các đoàn thể trong tỉnh đã phối hợp với chính quyền tuyên truyền, vận động, tổ chức và hướng dẫn các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đó nổi bật là việc triển khai thực hiện các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, các tập thể nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
BÀN ĐỨC VINH, Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh |
Để phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh, đưa Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống, các cấp mặt trận trong tỉnh cầnphối hợp chặt chẽ với các ngành, tổ chức trong hệ thống chính trị triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ chính quyền, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên, góp phần xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. Thường xuyên sâu sát nhân dân, nắm và phản ánh kịp thời với cấp uỷ, chính quyền những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, cùng với chính quyền chăm lo, bảo vệ các lợi ích hợp pháp của nhân dân, củng cố lòng tin và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Để thực hiện có hiệu quả những vấn đề nêu trên, tỉnh ta cần đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức đoàn thể các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phù hợp đặc điểm của từng địa phương, từng tổ chức, từng khu dân cư. Lồng ghép công tác tuyên truyên, tập hợp, vận động quần chúng nhân dân gắn với thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo ở khu dân cư, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân với các hành động cụ thể như chuyển giao khoa học kỹ thuật, làm nhà đại đoàn kết, giúp tư liệusản xuất, giống cây trồng, vật nuôi gắn với đề cao các giá trị văn hoá và truyền thống yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Từ đó tạo được sức thuyết phục, lan toả trong công tác tuyên truyền, tập hợp, vận động của Mặt trận và các đoàn thể, động viên được lòng tự hào dân tộc của mọi người, mọi giới, mọi lứa tuổi; lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, đại đoàn kết toàn dân làm động lực để phát triển toàn diện. Phát huy vai trò của những người có uy tín, tiêu biểu của đồng bào các dân tộc trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ, giữ gìn bản sắc truyền thống văn hoá dân tộc, nâng cao cảnh giác trước âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
ĐỨC DŨNG (Lược ghi)
* Bảo đảm an ninh biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển
SÙNG THÌN CÒ, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh |
Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh, 5 năm qua BĐBP đã phối hợp với dân quân, công an các xã biên giới tổ chức 15.920 buổi tuần tra, với 101.120 lượt người tham gia. Đấu tranh có hiệu quả với 91 vụ vi phạm Hiệp định tạm thời của phía đối diện. Giữ nguyên trạng hệ thống đường biên mốc giới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân giới cắm mốc hoàn thành theo kế hoạch giữ được quyền lợi của Quốc gia. Mở 96 chuyên án đấu tranh với các thế lực thù địch và các loại đối tượng giữ vững an ninh chính trị, TTATXH ở khu vực biên giới. Công tác đối ngoại với Trung Quốc được quan tâm. Thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước. 2 địa phương đặc biệt là lực lượng quản lý bảo vệ biên giới 2 bên đã tăng cường gặp gỡ giao lưu hợp tác giải quyết các công việc mà 2 bên cùng quan tâm. Trong nhiệm kỳ, 2 bên đã trao đổi tổng số 1.687 lượt thư, tổ chức 656 cuộc hội đàm, góp phần quan trọng vào việc xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Để “Bảo đảm an ninh biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” được tốt hơn, trong nhiệm kỳ 2010-2015, chúng ta cần thực hiện tốt một số giái pháp sau: Chủ động nắm chắc tình hình kết hợp chặt chẽ các biện pháp nghiệp vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Trọng tâm là việc triển khai Nghị định thư PGCM, Hiệp định và qui chế quản lý biên giới, Hiệp định về Cửa khẩu và qui chế quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc xây dựng biên giới hòa bình hữu nắm chắc tình hình kết hợp chặt chẽ các biện pháp nghiệp vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Trọng tâm là việc triển khai Nghị định thư PGCM, Hiệp định và qui chế quản lý biên giới, Hiệp định về Cửa khẩu và qui chế quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về biên giới Quốc gia tiếp tục đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu quả công tác quản lý địa bàn kiểm tra, kiểm soát qua lại biên giới. Nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự ATXH ở khu vực biên giới trọng tâm là việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 09 của Chính phủ về “Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm”, Chỉ thị số 21 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”. Tăng cường công tác vận động quần chúng, đặc biệt là tổ chức tuyên truyền học tập cho nhân dân 03 văn kiện pháp lý về biên giới, kết hợp chặt chẽ công tác biên phòng với tham gia củng cố hệ thống chính trị phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các xã biên giới, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh. Chỉ đạo chặt chẽ công tác đối ngoại biên phòng, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Trọng tâm là triển khai thực hiện nghị định 89 của Chính phủ về “Công tác đối ngoại Biên phòng”. Tập trung lãnh đạo nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện tốt nhiệm vụ phòng thủ tác chiến, phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; tiếp tục duy trì và thực hiện nghiêm túc Quyết định 107 ngày 02/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ về Qui chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng. Tới đây là Nghị định số 77/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn TTATXH và nhiệm vụ Quốc phòng (thay thế Quyết định 107 của Thủ tướng).
* Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượngkhám, chữa bệnh, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở tuyến cơ sở
TRẦN ĐỨC QUÝ, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Y tế |
Để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở tuyến cơ sở từ nay đến năm 2015, ngành Y tế tiếp tục củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực y tế cơ sở. Từng bước hoàn thiện về hệ thống tổ chức bộ máy y tế cơ sở theo quy định và phù hợp ở tùng thời kỳ. Tiêu chuẩn hoá và cân đối nhu cầu nhân lực y tế về cơ cấu, số lượng, chất lượng theo từng tuyến và từng vùng. Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế, cán bộ quản lý trong lĩnh vực điều trị, dự phòng. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ y tế. Tiếp tục duy trì hình thức đào tạo theo địa chỉ tại các trường đại học Y, Dược trong toàn quốc. Xây dựng kế hoạch quản lý, sử dụng hiệu quả cán bộ y tế được gửi đi đào tạo theo địa chỉ khi tốt nghiệp trở về địa phương công tác. Tăng cường năng lực quản lý điều hành của Trung tâm y tế các huyện, Trạm y tế xã đối với đội ngũ nhân viên y tế thôn bản để đẩy mạnh hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho người dân ngay tại thôn bản. Mở rộng và phát triển mô hình Cô đỡ thôn bản người dân tộc tại các xã vùng sâu, vùng khó khăn, để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em, góp phần giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh tại các thôn bản. Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế và thực hiện chuẩn Quốc gia về y tế xã; đảm bảo 195/195 trạm y tế xã, phường được xây dựng nhà 2 tầng và có đủ trang thiết bị y tế phù hợp; triển khai xây dựng nhà lưu trú cho cán bộ y tế để cán bộ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác; ưu tiên xây dựng nhà lưu trú tại các các xã vùng cao, vùng sâu; đảm bảo 100% các xã, phường đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Nâng cao chất lượng hoạt động của trạm y tế xã và phát triển mô hình Phòng khám Đa khoa khu vực liên xã. Từng bước nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại trạm y tế xã, đảm bảo duy trì hoạt động khám, chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại tuyến xã cho người dân. Triển khai đầy đủ và hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế Quốc gia. Để đảm bảo về chuyên môn cho cán bộ y tế xã, ngành Y tế có chủ trương sẽ triển khai hoạt động đào tạo lại cho cán bộ trạm y tế xã theo hình thức cầm tay chỉ việc tại các bệnh viện đa khoa huyện, tổ chức luân phiên cho tất cả các trạm y tế xã, đồng thời xây dựng kế hoạch phát triển các phòng khám đa khoa khu vực liên xã, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, đặc biệt là đối với người dân ở các huyện vùng cao, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn, hỗ trợ kịp thời cho các trạm y tế xã trong khu vực về cấp cứu và điều trị người bệnh. Triển khai thực hiện tốt Đề án 1816 (luân phiên cán bộ tuyến trên về hỗ trợ y tế tuyến dưới). Phát huy vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng trong hoạt động phối hợp chỉ đạo, điều hành các chương trình y tế tại địa phương. Tăng cường thực hiện xã hội hoá công tác y tế; thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực y tế. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, xây dựng các bếp ăn tình thương cho người bệnh nghèo... Tạo điều kiện thực hiện sự bình đẳng giữa các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại các huyện, xã miền núi, vùng cao, vùng khó khăn.
QUỲNH MAI (Lược ghi)
* Những giải pháp chủ yếu thực hiện chương trình xây dựng và phát triển cửa khẩu biên giới, phát triển kinh tế biên mậu
DƯƠNG VĂN HÒA,Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Xín Mần |
Tuy nhiên, việc xây dựng và phát triển cửa khẩu, phát triển kinh tế biên mậu còn hạn chế, hoạt động thương mại vẫn còn nhỏ bé, các hộ kinh doanh chưa sôi động, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chưa thu hút được các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào pháttriển kinh tế cửa khẩu.
Để cửa khẩu biên giới có hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm tới, cần quan tâm thực hiện những giải pháp chủ yếu như: Tăng cường giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa các huyện biên giới, hai tỉnh Hà Giang -Việt Nam và tỉnh Vân Nam -Trung Quốc; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị và ổn định lâu dài, làm cơ sở để phát triển cửa khẩu biên giới và kinh tế biên mậu của huyện nói riêng và của tỉnh nói chung; rà soát điều chỉnh quy hoạch các cửa khẩu biên giới; tập trung đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu; tiếp tục điều chỉnh bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách đã ban hành, tạo điều kiện thông thoáng thu hút các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế; từng bước xây dựng khu thương mại phi thuế quan để thu hút khách đến tham quan, mua hàng; xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu qua biên giới với Trung Quốc, có chính sách ưu tiên đối với các mặt hàng cụ thể để khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu trong tỉnh và trong nước ngay tại khu kinh tế cửa khẩu; xem xét, điều chỉnh, cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập cảnh, thủ tục xuất nhập khẩu, hải quan, kiểm dịch theo cơ chế “một cửa”, đảm bảo nhanh gọn; ưu đãi về tiền thuê đất, thuê mặt bằng, thuế sử dụng đất, nhằm thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế; hỗ trợ đưa dân ra làm ăn sinh sống khu vực của khẩu theo chính sách chương trình 120, chương trình quy tụ dân cư; xây dựng thương hiệu hàng hóa, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng; tăng cường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực như: Nông nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản, du lịch, giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực; tích cực tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ quảng bá sản phẩm của ta tại thị trường nước bạn; duy trì chế độ hội đàm, giao ban định kỳ giữa các huyện biên giới và hai tỉnh Hà Giang – Vân Nam để trao đổi nắm bắt thông tin và kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội đầu tư và phát triển cửa khẩu hai bên. Giữ gìn và đảm bảo về quốc phòng - an ninh, trật tự khu vực biên giới, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với phát triển cửa khẩu, phát triển kinh tế biên mậu... Có như vậy mới sớm thúc đẩy phát triển cửa khẩu, phát triển kinh tế biên mậu trên địa bàn tỉnh, nhất là các huyện có lợi thế phát triển kinh tế cửa khẩu.
* Giải pháp thực hiện chương trình trồng rừng kinh tế và cây cao su tại huyện Quang Bình
NGUYỄN VĂN TUỆ, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Quang Bình
|
Về trồng rừng kinh tế: Với khoảng 60 ngàn ha đất lâm nghiệp, là thuận lợi cho phát triển kinh tế rừng. Những năm qua, mỗi năm, huyện trồng mới được từ 2.000 – 2.500ha rừng kinh tế, nâng độ che phủ đạt 67%, nhiều hộ có trên 20ha rừng kinh tế. Hơn 90% số hộ ở nông thôn hàng năm có thu nhập từ kinh tế rừng. Bình quân thu nhập từ kinh tế rừng của các hộ chiếm 40 – 50% tổng thu nhập hàng năm. Qua đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II xác định, phát triển mạnh rừng kinh tế, phấn đấu mỗi năm trồng từ 2.000 – 2.500ha. Để làm được điều này, phải quy hoạch phát triển rừng, quy hoạch cụ thể vùng nguyên liệu giấy, nguyên liệu phục vụ chế biến...; tập trung mở rộng diện tích rừng ở 5 xã vùng cao; đối với 10 xã vùng thấp, xây dựng, quy hoạch cụ thể để vừa phát triển rừng sản xuất, vừa giành quỹ đất ưu tiên phát triển cây cao su...; tiếp tục chỉ đạo Ban quản lí trồng mới 5 triệu ha rừng, Ban phát triển rừng cấp xã và cấp thôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn chuyển giao tiến bộ khoa học cho nhân dân; lồng ghép nhiều chương trình dự án hỗ trợ nhân dân trồng và đầu tư chăm sóc rừng, có chính sách, cơ chế vay vốn hỗ trợ lãi xuất cho nhân dân trồng rừng; thực hiện liên kết “4 nhà” trong việc trồng, chế biến và bao tiêu sản phẩm lâm sản; khuyến khích các hộ, các chủ đầu tư, các doanh nghiệp có năng lực tham gia liên doanh, liên kết với nông dân phát triển rừng kinh tế; đầu tư các cơ sở chế biến và tiêu thụ lâm sản cho nhân dân; xúc tiến xây dựng nhà máy chế biến các sản phẩm từ cây nguyên liệu sợi dài, công xuất 1.000 tấn sản phẩm/năm và, xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu giấy; nghiên cứu, ứng dụng, tuyển chọn các loại giống cây trồng tốt, đủ tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng, có năng suất, giá trị kinh tế; kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc cây giống; làm tốt việc phòng, chống cháy rừng, bảo vệ rừng...
Về chương trình trồng cây cao su và trồng xen canh hoa màu trên đất trồng cao su: Đảng bộ huyện đã xây dựng Nghị quyết về chương trình phát triển cây cao su đến 2015, tầm nhìn đến 2020. Đến nay, huyện đã tích cực triển khai tại 5 xã, với 802 hộ tham gia góp đất và bàn giao cho Công ty CP cao su Hà Giang 1.818ha, công ty đã tiến hành khai hoang được trên 800ha, tổng diện tích trồng đến năm 2010 là 550ha. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II xác định trồng đạt 4.500 – 5.000ha cao su.
Đến nay, huyện khuyến khích trồng xen canh bằng cách hỗ trợ 50% giá giống, phân bón cho mỗi loại cây trồng, xây dựng mô hình thâm canh từ 5 ha trở lên; hỗ trợ tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Công ty cao su giải quyết cho nhân dân vay vốn không lãi xuất để mua giống, phân. Qua đó, đến nay người dân đã trồng xen canh được khoảng 300ha các loại cây màu gồm: Ngô, lạc, vừng, đỗ tương, cỏ chăn nuôi với năng xuất khá tốt. Với kết quả khả quan bước đầu, hiện nay nhân dân đang tiếp tục chuẩn bị cho trồng xen vụ thu đông với khoảng 1.500ha. Có thể đánh giá việc trồng xen hoa màu trên diện tích trồng cao su sẽ đem lại nguồn thu cho người dân từ 5 - 12 triệu đồng/ha/vụ (ngoài ra, người dân còn được hưởng tiền công từ việc chăm sóc cây cao su).
Qua 2 năm thực hiện chương trình trồng cây cao su, có thể rút ra một số kinh nghiệm lãnh, chỉ đạo là: Phải quyết tâm, quyết liệt trong quá trình thực hiện chương trình; huy động toàn bộ hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở xã, thôn vào cuộc để tuyên truyền, vận động nhân dân; tiếp tục duy trì và thành lập mới các tổ tuyên truyền của huyện, xã và thôn bản xuống cơ sở tuyên truyền, vận động; xây dựng quy chế, thường xuyên kiện toàn Ban chỉ đạo của huyện, xã, hàng tháng giao ban, rút kinh nghiệm, giải quyết dứt điểm những vướng mắc phát sinh; tổ chức cho cán bộ, nhân dân đi thăm quan, học tập trong và ngoài tỉnh; khuyến khích Công ty cao su trồng, xây dựng nhà máy, xưởng chế biến, xây dựng làng công nhân theo tiêu chí nông thôn mới; quy hoạch lại dân cư, phân bố lại lực lượng lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, giải quyết việc làm, tiến tới làm giàu cho nhân dân trong vùng trồng cao su; xây dựng tốt phương án trồng xen canh giai đoạn 2010 – 2015...
GIAO THƯ (Lược ghi)
Ý kiến bạn đọc