Kỳ họp thứ 12 - HĐND tỉnh (khóa XV) thành công tốt đẹp
HGĐT- Sau 3 ngày làm việc (8-10.12), các đại biểu đã tập trung xem xét, thảo luận 37 báo cáo và tờ trình. Trong đó, có 18 báo cáo trình tại phiên họp toàn thể, 29 báo cáo nghiên cứu, thảo luận ở tổ.
Biểu quyết thông qua nghị quyết kỳ họp. Ảnh: Minh Tâm
|
Phần lớn các ý kiến đều khẳng định trong bối cảnh có nhiều khó khăn tác động đến các chính sách phát triển KT-XH, kết quả đạt được của năm 2008 rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thiệt hại trong sản xuất, một phần do sự chủ quan của nhân dân như chăm sóc kém, không làm chuồng trại, sản xuất nông nghiệp đã có sự đột phá nhưng chưa phát triển mạnh, nhiều sản phẩm chưa cạnh tranh được, chưa có thương hiệu. Hiện nay, chất lượng nhiều công trình xây dựng rất kém, nhất là công trình thuộc nguồn vốn chương trình 135 giai đoạn II. Trong công tác phân cấp, việc phối hợp từ tỉnh đến cơ sở chưa được nhịp nhàng, chưa có sự chủ động của mỗi cấp nên công tác điều hành, thực hiện còn nhiều lúng túng. Việc di dân ra khỏi vùng nguy hiểm còn rất chậm. Chất lượng giáo dục chưa đảm bảo do cách làm, phương pháp còn bị động, tổ chức thực hiện còn yếu kém…
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian tới, các đại biểu kiến nghị: UBND tỉnh cần đánh giá về công tác hỗ trợ, vận động nhân dân làm chuồng trại, trồng cỏ cho gia súc trước mùa đông 2009; tăng cường quảng bá sản phẩm, đăng ký thương hiệu cho các sản phẩm địa phương; quy hoạch đối với diện tích cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả để bảo đảm sản lượng ổn định. Cần kiểm tra, đánh giá vai trò của cấp xã, tiến hành rà soát chất lượng các công trình trên toàn tỉnh; cần quy hoạch, khoanh vùng và cấp phép khai thác đá để phục vụ nhu cầu xây dựng của địa phương nhưng vẫn giữ, bảo tồn được “Công viên địa chất Quốc gia”.
Tỉnh cần xử lý, giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường, có quy định chặt chẽ về thủ tục tuyển chọn cán bộ, nhất là giáo viên… Tại kỳ họp, các đại biểu tập trung chất vấn lãnh đạo Sở TN-MT, GT-VT, NN-PTNT, Giáo dục, Ngân hàng Nhà nước…về các lĩnh vực thuộc ngành quản lý. Nhìn chung các ý kiến chất vấn, trả lời chất vấn đều thẳng thắn, tập trung làm rõ vấn đề cử tri quan tâm cũng như trách nhiệm của các ngành... Với tinh thần làm việc khẩn trương, tập trung trí tuệ, các đại biểu đã biểu quyết thông qua 19 Nghị quyết.
Phát biểu bế mạc kỳ họp, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Viết Xuân khẳng định: Đây là kỳ họp thông qua nhiều Nghị quyết nhất, các Nghị quyết được thông qua thể hiện sự chuẩn bị khẩn trương, tích cực, có chất lượng của các ngành tham mưu cho UBND tỉnh, tinh thần trách nhiệm của các Ban HĐND tỉnh đã tập trung thời gian thẩm tra trình trước kỳ họp. Các Nghị quyết được ban hành đảm bảo đúng quy trình, quy phạm pháp luật, đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước, thúc đẩy phát triển KT-XH, QP-AN của tỉnh trong năm 2009 và những năm tiếp theo. Chủ tịch HĐND tỉnh đề nghị: Ngay sau kỳ họp, UBND tỉnh sớm thể chế hoá các Nghị quyết kỳ họp, triển khai đồng bộ các biện pháp, giải pháp, phân công trách nhiệm từng ngành, cấp để tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Thường trực HĐND tỉnh yêu cầu các đại biểu HĐND tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực hoạt động và chất lượng tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát. Đồng thời, tích cực tuyên truyền và gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết kỳ họp đã thông qua. Kịp thời phát hiện, bổ sung những vấn đề mới thiết thực, đúng luật, góp phần đẩy nhanh kết quả thực hiện Nghị quyết trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ý kiến tham luận của các đại biểu HĐND
* Cần có chính sách quản lý, giúp đỡ người lang thang vô gia cư
Đại biểu Triệu Tài Vinh, đoàn Hoàng Su Phì |
Thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” nhưng hiện nay việc tang, lễ hội, cưới xin trên địa bàn thị xã Hà Giang tổ chức rất linh đình, nhất là đối với gia đình cán bộ không thực hiện nghiêm Chỉ thị của Chính phủ, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Rất mong tỉnh sớm có biện pháp chỉ đạo thực hiện đúng quy ước nếp sống văn hóa.
Việc quản lý tình trạng sử dụng đầu, chảo thu ngoài luồng rất khó khăn, tác hại khó lường. Đề nghị tỉnh có biện pháp chỉ đạo công tác phối hợp giữa ngành và cấp và có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ khó khăn có điều kiện được xem các chương trình truyền hình của Trung ương, địa phương. Xem xét cho thực hiện việc truyền chương trình truyền hình của Đài PT-TH tỉnh qua mạng Internet với chi phí ban đầu 400 triệu đồng.
M.T (Lược ghi)
* Tăng cường bác sỹ về cơ sở khám, chữa bệnh cho nhân dân
(Đại biểu Trần Đức Quý, đoàn Yên Minh)
Trong năm 2008, tỉnh ta đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực. Song tình hình thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ, CCVC của tỉnh vừa thiếu cán bộ quản lý, lại yếu về trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của tỉnh trong giai đoạn mới. Để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, CCVC trong thời kỳ đổi mới, việc xây dựng chính sách thu hút, khuyến khích phát triển đội ngũ cán bộ của tỉnh là sự cần thiết. Tại kỳ họp lần này, UBND tỉnh đã xây dựng Tờ trình đề nghị ban hành chính sách thu hút đối với cán bộ, CCVC trên địa bàn tỉnh của tỉnh đưa ra hoàn toàn phù hợp. Nhưng theo tôi, đối với cán bộ được cử đi học phải có bằng tốt nghiệp mới được hưởng, đây là một việc rất khó. Vì các học viên khi đi học gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy tỉnh cần xem xét lại mức trợ cấp đã đưa ra tại Tờ trình. Theo tôi, khi cán bộ được cử đi học thi đỗ vào trường có giấy gọi thì tỉnh hỗ trợ 50%, khi tốt nghiệp có bằng ra trường thì được hưởng nốt 50% mức trợ cấp còn lại. Có như vậy mới động viên được cán bộ, CCVC trên địa bàn tỉnh tham gia các lớp đại học, trên đại học, yên tâm công tác lâu dài tại tỉnh ta.
Hiện nay ngành Y tế tỉnh gặp rất nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, đặc biệt là các bệnh viện từ tỉnh đến các huyện thiếu nhiều bác sỹ. Mục tiêu của tỉnh đề ra 80% số xã trong tỉnh có bác sỹ là rất khó khăn, khó có thể thực hiện được. Đề nghị tỉnh cần quan tâm hơn tới công tác đào tạo cán bộ cho ngành Y tế tỉnh nhà và một giải pháp khả thi là tăng cường bác sỹ xuống xã khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Đức Anh (Lược ghi)
Lãnh đạo các sở, ngành trả lời chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh
* Công trình kè chống sạt lở thị trấn Vinh Quang sẽ tiếp tục được thi công hoàn thiện, đảm bảo thoát lũ và giao thông đi lại
(Đại biểu Nguyễn Văn Bào, Giám đốc Sở Nông nghiệp – PTNT)
Việc thi công xây dựng kè chống sạt lở thị trấn Vinh Quang (đoạn khu phố 1, 2), huyện Hoàng Su Phì được khởi công từ cuối năm 2002 đã làm thu hẹp lòng suối từ 4 - 5m, đáy chỉ còn 0,6m, làm ảnh hưởng đến khả năng thoát lũ, nhân dân đã có nhiều ý kiến, các cơ quan chức năng đã yêu cầu tạm dừng thi công từ cuối năm 2006, nhưng đến cuối năm 2008 lại tiếp tục thi công theo thiết kế cũ (không điều chỉnh thiết kế).
Trả lời vấn đề này, đại biểu Nguyễn Văn Bào, Giám đốc Sở Nông nghiệp - PTNT là đơn vị chủ đầu tư cho rằng, công trình kè chống sạt lở thị trấn Vinh Quang được đầu tư xây dựng theo đề nghị của UBND huyện Hoàng Su Phì, sau khi có chủ trương của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp - PTNT và tỉnh đã phê duyệt Dự án nghiên cứu khả thi ngày 4.10.2002 với mục tiêu: Chống sạt lở và bảo vệ bờ sông suối, ổn định dân cư khu vực thị trấn Vinh Quang; duy trì khả năng thoát lũ; tạo mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ cho phát triển KT - XH... Dự án được tiến hành trong 2 giai đoạn (giai đoạn 1 đã xong), tổng chiều dài công trình là 883m từ Pố Lồ xuôi về hạ lưu đến Bệnh viện huyện và do Ban quản lí công trình nông - lâm nghiệp thuộc Sở Nông nghiệp - PTNT làm chủ đầu tư. Các đơn vị thi công là Công ty TNHH Tiến Đạt và Công ty TNHH Kiên Cường của tỉnh. Quá trình thi công có nhiều ý kiến của nhân dân về việc công trình đã làm thu hẹp dòng chảy, làm mất cầu, đường dân sinh của xã Pố Lồ, Sở Nông nghiệp - PTNT đã kiểm tra cụ thể về kỹ thuật và xin ý kiến của UBND tỉnh cho tạm đình chỉ việc thi công công trình.
Ngày 24.8.2007, UBND tỉnh có văn bản số 2696/UBND – NLN, chỉ đạo giải quyết kè chống sạt lở thị trấn Vinh Quang, giao trách nhiệm cho Sở Nông nghiệp - PTNT hợp đồng với đơn vị tư vấn chuyên ngành thẩm định và tư vấn về phương án xử lí khi mặt cắt ngang dòng chảy bị thu hẹp. Theo tính toán của đơn vị Tư vấn kỹ thuật thuộc Công ty Cổ phần Tư vấn, thiết kế giao thông - thuỷ lợi Hà Nội, đã kiểm tra thiết kế và tính toán vấn đề thoát lũ tại nhánh suối Pố Lồ với các thiết kế về chiều rộng đáy, chiều rộng mặt, chiều cao và khả năng thoát lũ của đoạn suối được đảm bảo. Tuy nhiên, một số điểm có mặt thoát lũ giảm đột ngột (tại cọc C24 - Trung tâm thương mại và đoạn vào cầu UBND thị trấn Vinh Quang). Để giải quyết các điểm trên, Sở Nông nghiệp - PTNT đã có tờ trình với UBND tỉnh về phương án khắc phục để thiết kế bổ sung mở rộng cửa tại các điểm như đã nêu để đảm bảo thoát lũ cho công trình. Tuy nhiên, trong quá trình thi công, một số hộ dân tự ý làm nhà vượt lòng suối, chắn hết khoảng không gian miệng suối, làm ách tắc và ảnh hưởng cho các hộ dân. Trước các kiến nghị của dân, Sở Nông nghiệp - PTNT phối hợp với chính quyền địa phương và Công an tỉnh yêu cầu các hộ dân cần chấp hành nghiêm chỉnh quy định của Nhà nước, không làm ách tắc, cản trở việc thi công công trình của Nhà nước.
- Trả lời ý kiến chất vấn cho rằng công trình kè làm mất đường dân sinh và cầu đã 3 năm nay nhưng chưa được giải quyết và bao giờ thì giải quyết? Đại biểu Nguyễn Văn Bào cho rằng: Vấn đề trên trước hết là trách nhiệm của chủ đầu tư, Sở Nông nghiệp - PTNT nhận thiếu sót, thiếu kiểm tra, đôn đốc các đơn vị quản lí đầu tư xây dựng, các nhà thầu thi công dẫn đến việc chưa chấp hành nghiêm túc các quy định của Nhà nước khi thi công các công trình trên địa bàn và làm ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Đại biểu Nguyễn Văn Bào cho biết, hiện nay công trình đã được bổ sung, ghi vốn đầu tư và được UBND tỉnh cho tiếp tục thi công hoàn thiện theo thiết kế, kỹ thuật được duyệt và bổ sung một số điểm. Đồng thời, khẳng định trong tháng 12 sẽ chỉ đạo đơn vị thi công, bổ sung một cầu tạm qua kè và tu sửa lại đoạn đường dân sinh, đảm bảo giao thông đi lại.
Phùng Nguyên (Lược ghi)
* Vì sao chậm đền bù giải phóng mặt bằng tuyến Quốc lộ 279
(Đại biểuHoàng Quyết Chiến, Giám đốc Sở GT-VT)
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng tuyến đường 279 đoạn qua các xã thuộc huyện Quang Bình kéo dài, đến nay còn 30% giá trị đền bù nhân dân chưa được thanh toán, riêng thôn Tân An (xã Yên Bình) 100% giá trị đền bù chưa được thanh toán. Lý do trong việc chậm thanh toán cho nhân dân? Trách nhiệm thuộc về ai? Bao giờ thì giải quyết dứt điểm?
Đồng chí Hoàng Quyết Chiến, Giám đốc Sở GT-VT trả lời: Dự án nâng cấp Quốc lộ 279 đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng tháng 12.2002. Bộ GT-VT đã phê duyệt quyết toán xây lắp thuộc nguồn vốn của Bộ Đầu tư. Về công tác đền bù giải phóng mặt bằng thuộc nguồn vốn địa phương đầu tư (Bộ hỗ trợ 200 triệu đồng). Năm 2001, chủ đầu tư đã chi trả tạm ứng 70% số tiền theo dự toán đền bù do Hội đồng đền bù huyện Bắc Quang lập. Số tiền còn lại 30% chưa chi trả cho dân là do: Khi tách huyện, việc chuyển giao hồ sơ tài liệu của huyện Bắc Quang vào huyện Quang Bình để thực hiện tiếp việc hoàn tất dự toán đền bù không đầy đủ hồ sơ tài liệu. Sở GT-VT đã có văn bản đề nghị Hội đồng đền bù Quang Bình hoàn tất trình duyệt dự toán đề bù. Hội đồng đền bù huyện Quang Bình trên cơ sở hồ sơ tiếp nhận của Hội đồng Bắc Quang đã tổng hợp lập dự toán trình Sở Tài chính thẩm định, song do bị thiếu bản gốc (chỉ còn bản phô tô) của 61 hộ gia đình nên Sở Tài chính đã trả lại hồ sơ bằng văn bản ngày 16/8/2008. Nguyên nhân, trách nhiệm để xảy ra tồn tại kéo dài nêu trên trước hết là do Hội đồng đền bù huyện Bắc Quang cũ và Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng huyện Quang Bình đã không lưu giữ và chuyển giao đủ hồ sơ đền bù cho huyện Quang Bình. Việc khôi phục hoàn tất lại hồ sơ mất rất nhiều thời gian và công sức, cán bộ phụ trách đền bù số lượng ít mà số lượng dự án phải đền bù thì nhiều nên chưa giải quyết dứt điểm tồn tại đền bù Quốc lộ 279 đoạn Việt Quang - Nghĩa Đô. Sở GT-VT đã cử cán bộ phối hợp đôn đốc Hội đồng đền bù Quang Bình để giải quyết. Hiện tại đang hoàn tất các thủ tục để trình cấp thẩm quyền thẩm định phê duyệt. Để giải quyết nhanh chóng và dứt điểm đề nghị Hội đồng đền bù huyện QuangBình căn cứ các vướng mắc thực tế cần giải quyết mà vượt thẩm quyền của Hội đồng thì phải có phương án trình UBND tỉnh cho chủ trương thực hiện. Khi có quyết định phê duyệt thì chủ đầu tư sẽ đề nghị tỉnh bố trí vốn để chi trả nốt 30% đền bù còn lại cho các hộ dân.
Minh Tâm (Lược ghi)
* Điều chỉnh lãi suất tiền vay, đảm bảo lợi ích giữa người gửi tiền - tổ chức tín dụng - người vay vốn
(Đại biểu Nguyễn Xuân Thịnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước)
Việc cán bộ Ngân hàng “thỏa thuận” lại bắt buộc nâng lãi suất tiền vay có đúng với quy định của pháp luật không? Vừa qua lãi suất cơ bản của Nhà nước đã giảm, các Ngân hàng có cho khách hàng thực hiện hợp đồng lại để giảm lãi suất không?Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm gì trong việc này?
Đồng chí Nguyễn Xuân Thịnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh, trả lời: Thực hiện Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các tổ chức tín dụng và khách hàng vay được thỏa thuận để điều chỉnh lãi suất đã cho vay ghi trong hợp đồng tín dụng. Việc các tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng No & PTNT tỉnh Hà Giang nói riêng thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cho vay đối với các hợp đồng tín dụng được ký kết trước ngày 19.5.2008 trên nguyên tắc thỏa thuận, công khai và khách hàng đồng tình thống nhất trước khi ký văn bản thỏa thuận và bổ sung vào hợp đồng tín dụng, như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mức lãi suất cho vay có điều chỉnh đó không được vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa theo Quyết định số 16 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận theo quy định của Bộ luật Dân sự. Kể từ ngày 19.5.2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh mới nhận được 1 đơn ở khu vực Tân Quang (Bắc Quang) yêu cầu trả lời việc điều chỉnh lãi suất tiền vay theo sự điều chỉnh lãi suất cơ bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu Giám đốc Ngân hàng No & PTNT tỉnh trả lời. Khi Ngân hàng No & PTNT tỉnh xuống làm việc trực tiếp với khách hàng thì khách hàng xin rút đơn và thống nhất cùng chia sẻ khó khăn với Ngân hàng để ký lại việc điều chỉnh lãi suất tiền vay và không có biểu hiện áp đặt hay bắt buộc khách hàng vay vốn phải chịu lãi suất cao.
Khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giảm lãi suất cơ bản thì khách hàng được giảm lãi suất tiền vay, việc giảm lãi suất tiền vay được tiến hành theo các bước: Khách hàng làm đơn đề nghị đến tổ chức tín dụng nơi cho vay (nói chung) hoặc Ngân hàng No & PTNT Hà Giang nói riêng để hai bên cùng nhau thỏa thuận mức lãi suất tiền vay mới, thống nhất ký kết văn bản điều chỉnh lãi suất và bổ sung vào hợp đồng tín dụng, nhưng không được vượt mức 150% so với lãi suất cơ bản do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. Trong trường hợp khi lãi suất cho vay hiện tại giảm, nhưng lãi suất trên hợp đồng tín dụng đã ký mới giữa khách hàng và ngân hàng cao, thì các khách hàng có thể trả nợ trước hạn. Sau đó, khách hàng vay vốn tiếp tục làm thủ tục, hồ sơ theo quy định để được vay vốn phục vụ cho các dự án với mức lãi suất thấp hơn.
Những năm qua, Ngân hàng Nhà nước tỉnh luôn thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao. Luôn tuân thủ chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại Nhà nước thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, của Thống đốc Ngân hàng một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng điều chỉnh kịp thời, linh hoạt các loại lãi suất theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không được áp đặt, gò ép khách hàng khi thực hiện điều chỉnh lãi suất tiền vay, đảm bảo lợi ích giữa người gửi tiền - tổ chức tín dụng - người vay vốn. Ngân hàng Nhà nước tỉnh thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng, giám sát về lãi suất, tỷ giá, phí… Chính vì vậy, cho đến nay chưa có tổ chức tín dụng nào bị xử lý do vi phạm các quy định về lãi suất, tỷ giá.
Hoàng Anh (Lược ghi)
* Phấn đấu hoàn thành cấp Giấy chứng nhận QSDĐ trên địa bàn tỉnh
(Đại biểu Nguyễn Đức Vinh, Giám đốc Sở TN-MT)
Tại kỳ họp thứ 10 - HĐND tỉnh, khi trả lời chất vấn, ông Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) đã đảm bảo sẽ thực hiện xong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) lâm nghiệp cho nhân dân trong năm 2008 nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Đề nghị ông Giám đốc Sở TN-MT cho biết nguyên nhân của sự chậm trễ trên? Trách nhiệm của Giám đốc Sở TN-MT trong vấn đề này? Đến khi nào thì hoàn thành việc cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp cho nhân dân?
Đồng chí Nguyễn Đức Vinh, Giám đốc Sở TN-MT trả lời: Sau khi kết thúc kỳ họp, Sở TN-MT đã phối hợp với UBND các huyện, thị xã và các đơn vị tư vấn tiến hành đăng ký, kê khai cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp cho nhân dân trên địa bàn tỉnh. Cụ thể đến nay đã đồng loạt tiến hành đăng ký kê khai cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp cho 76 xã của 7 huyện gồm: Bắc Quang, Quang Bình, Đồng Văn, Yên Minh, Hoàng Su Phì, Xín Mần và huyện Vị Xuyên. Với tổng số hồ sơ đã đăng ký cấp GCNQSDĐ cho 76 xã với 28.052 hồ sơ, trong đó các huyện đã ký quyết định cấp lại, cấp mới 12.959 giấy, số còn lại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất của các huyện đang thẩm định. Sở TN-MT được UBND tỉnh giao là cơ quan chủ trì thực hiện công việc cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp cho nhân dân trong năm 2008. Trong quá trình tổ chức thực hiện, do có sự thay đổi về chế độ tiền lương (2003) nên tổng mức kinh phí đầu tư cho dự án đã tăng so với dự toán được Chính phủ phê duyệt ban đầu (11,899 tỷ đồng). Để tháo gỡ những khó khăn trên, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã bố trí sử dụng nguồn ngân sách Trung ương cho Hà Giang 14,993 tỷ đồng và ngân sách địa phương phải đảm bảo nguồn chi sự nghiệp kinh tế là 5, 936 tỷ đồng, sử dụng cho việc kê khai, đăng ký cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp. Phần kinh phí 5,936 tỷ đồng này, UBND tỉnh đã có quyết định quy định Sở KH-ĐT, Sở Tài chính có trách nhiệm cân đối, bố trí kinh phí cho Sở TN-MT thực hiện dự án. Sở TN-MT đã có kế hoạch kinh phí gửi cho Sở KH-ĐT, Sở Tài chính nhưng do kinh phí của tỉnh hạn hẹp nên chưa bố trí được.
Về nguyên nhân của sự chậm trễ đó, là do: Công tác kê khai, cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp phải dựa trên kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng của tỉnh, nhưng đến tháng 5.2008, Sở TN-MT mới nhận được kết quả rà soát 3 loại rừng trên địa bàn tỉnh do Sở NN & PTNT chuyển sang, do đó công việc kê khai, cấp giấy mới được thực hiện từ tháng 5.2008 đến nay. Nguồn bản đồ dùng để kê khai, cấp giấy được đo vẽ năm 2003 và 2004, đến nay đã có biến động rất nhiều nên khi tiến hành kê khai, đăng ký để cấp giấy phải chỉnh lý biến động do đó đã ảnh hưởng đến tiến độ cấp giấy. Số lượng GCNQSDĐ trên địa bàn tỉnh lớn, 108.900 giấy, trong khi đó số cán bộ làm công tác thẩm định hồ sơ cấp giấy tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất của các huyện, thị xã quá ít, có những huyện chưa thành lập được văn phòng đăng ký do đó việc thẩm định hồ sơ cấp giấy còn chậm. Đơn giá để lập hồ sơ cấp giấy theo dự toán được duyệt thấp nên có những huyện chưa có đơn vị tư vấn nào thực hiện. Sang năm 2009, Sở TN-MT sẽ phối hợp với UBND các huyện phấn đấu ở mức độ sớm nhất để hoàn thiện công việc cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Đức Quý (Lược ghi)
Giải pháp khắc phục tình trạng tỷ lệ trẻ từ 3 - 5 tuổi chưa được đi học mẫu giáo còn cao
(Đại biểu Lương Văn Soòng, Giám đốc Sở GD - ĐT)
Giải trình về vấn đề hiện nay toàn tỉnh có 11.000 trẻ em, chiếm 25% số trẻ từ 3 - 5 tuổi chưa được đi học mẫu giáo, tình trạng trên sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục khi số học sinh này bắt đầu bước vào lớp 1. Giải pháp khắc phục của ngành như thế nào?
Đại biểu Lương Văn Soòng, Giám đốc Sở GD - ĐT cho rằng: Căn cứ số liệu thống kê và báo cáo của các huyện, đến thời điểm 30.11.2008, tỷ lệ huy động trẻ từ 3 - 5 tuổi đến trường toàn tỉnh là 33.245/43.246 cháu, đạt 77,2%, (số chưa đến trường là 9.821 cháu, chiếm 22,8%). Riêng trẻ 5 tuổi đến trường là 13.372/14.741 cháu, chiếm 90,71% (số chưa đến trường chiếm 9,29%). Nguyên nhân là do: Các thôn, bản ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh dân cư ở phân tán, giao thông đi lại khó khăn. Trong khi đó, số trẻ 3 - 5 tuổi quá ít, nhiều thôn, bản không đủ số trẻ để mở 1 lớp học có từ 8 - 10 trẻ (kể cả mở lớp ghép 3 độ tuổi 3, 4, 5 tuổi). Còn một số địa phương (thôn, bản) chưa có trường, lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy còn rất hạn chế, phòng học cho ngành học Mầm non còn thiếu nhiều (hiện toàn tỉnh còn có 1.054 lớp mầm non phải học nhờ các trường phổ thông và trụ sở thôn, bản). Một nguyên nhân nữa là hiện nay, các huyện còn thiếu giáo viên mầm non (toàn tỉnh thiếu 438 giáo viên).
Để giải quyết tình trạng trên, đại biểu Lương Văn Soòng đưa ra giải pháp là: Các địa phương tiếp tục xây dựng trường, lớp mẫu giáo ở các thôn, bản (bằng các nguồn vốn ngân sách địa phương, đóng góp của nhân dân từ công tác xã hội hoá giáo dục, chương trình kiên cố hoá trường lớp học...). Các địa phương tiếp tục tuyển dụng giáo viên mầm non (ưu tiên giáo viên là người địa phương) nếu còn biên chế. Những địa phương đã hết biên chế thì xin được bổ sung ngân sách để hợp đồng giáo viên, mở lớp ghép nhiều độ tuổi ở các thôn, bản vùng khó. Để thực hiện triển khai chương trình phổ cập 1 năm mẫu giáo 5 tuổi (chương trình Quốc gia) đại biểu Lương Văn Soòng đưa ra những giải pháp tình thế như sau: Tổ chức mở các lớp 20 buổi và 36 buổi học trong hè cho những cháu 5 tuổi chưa qua lớp mẫu giáo học Toán và chữ cái. Chỉ đạo các trường tiểu học triển khai chương trình chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước tuổi đến trường tiểu học do Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn hỗ trợ.
Giao Thư(Lược ghi)
Ý kiến bạn đọc