5 kỳ thi tốt nghiệp THPT: Thay đổi tư duy và cú sốc tích cực
Mỗi năm, kỳ thi TN THPT luôn là sự quan tâm hàng đầu của gần một triệu học sinh và gia đình các em, của một triệu thầy cô giáo cả nước và của hàng chục triệu người Việt Nam, vì đây là sự kiện đánh dấu nỗ lực suốt gần 20 năm trời không chỉ của bản thân mỗi học sinh mà còn của các bậc cha mẹ, ông bà…
Hơn nữa đây còn là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng quyết định bước đường học hành tiếp theo để lập nghiệp của các em, và là một thước đo chỉ số chất lượng của nền giáo dục nước nhà. 5 năm với 5 kỳ thi tốt nghiệp THPT là một thời gian đủ dài để chúng ta cùng nhau nhìn lại công việc có ý nghĩa quan trọng này, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết, góp phần làm cho các kỳ thi đạt được mục tiêu ngày càng hiệu quả.
Thay đổi tư duy
Kỳ thi TN THPT năm 2006 là một kỳ thi rất đặc biệt. Đó là một kỳ thi diễn ra trong bối cảnh ngành giáo dục đã xác định phải thực hiện nghiêm túc để đảm bảo công bằng trong đánh giá, song thực tế các vi phạm vẫn liên tục gia tăng cả về số lượng và mức độ... Có những hội đồng thi đã để cho người ngoài vào đưa đáp án cho thí sinh, công khai quay cóp ở phòng thi mà không bị ngăn cản. Kết quả tốt nghiệp bình quân cả nước là 94%, song rất nhiều người cho rằng, đó không phải là con số chất lượng, mà chỉ là biểu hiện của “bệnh thành tích”. Không ít người cho rằng có lẽ ngành giáo dục không có cách nào lập lại được trật tự học hành và thi cử, tình hình cứ ngày một xấu đi.
Ngay trong tháng 6-2006, sau kì thi tốt nghiệp THPT, Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Phó Chủ tịch thường trực UBND TPHCM, nguyên Phó hiệu trưởng trường ĐH Bách khoa TPHCM được giao trọng trách Bộ trưởng Bộ GD và ĐT. Thầy Nhân đã có kinh nghiệm 23 năm dạy ở bậc ĐH, song chưa bao giờ dạy ở phổ thông và hầu như không có kinh nghiệm thực tế về tổ chức thi tốt nghiệp THPT. Ngày 7-7-2006, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân bắt đầu có buổi làm việc đầu tiên với lãnh đạo các Vụ, Cục của Bộ. Trong vòng 2 tuần sau đó, Bộ trưởng đã đi thăm một số tỉnh, gặp gỡ các thầy cô giáo ở các trường, lãnh đạo các sở GD&ĐT, lãnh đạo các tỉnh và gặp gỡ phụ huynh HS. Bộ trưởng đã trao đổi với một số cán bộ các Vụ, Cục ở Bộ, với các đồng chí Thứ trưởng và sau một tuần đã viết một bức thư gửi từng đồng chí Thứ trưởng để xin ý kiến về một việc: lãnh đạo Bộ và toàn ngành phải làm gì để khắc phục một cách căn cơ, tận gốc bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử đã tồn tại nhiều năm.
Xác định đây là một việc khó, không thể giải quyết nhanh chóng mà phải làm trong vài năm. Song nếu không tìm ra khâu đột phá thì không thể làm thay đổi hành vi của hàng triệu học sinh, hàng vạn giáo viên, hàng triệu hộ gia đình và thậm chí của lãnh đạo một số địa phương. Bộ trưởng đề nghị khâu đột phá là triển khai một cuộc vận động trong toàn ngành và toàn xã hội: chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Triết lí của cuộc vận động là: phải làm thay đổi nhận thức của một số khá đông học sinh và gia đình, của lãnh đạo một số địa phương, rằng: cái mà các em cần khi học xong THPT không phải là tấm bằng tốt nghiệp mà suy cho cùng phải là năng lực làm người, năng lực để vào đời. Đây mới là tiền đề để các em có thể học tiếp, học lấy một nghề để tự nuôi được mình, có ích cho gia đình và xã hội. Có bằng tốt nghiệp THPT mà không có năng lực thực chất thì trước sau cũng bị cuộc sống, nhất là trong cơ chế thị trường, đào thải, không thể báo đáp công ơn cha mẹ, việc học hành 12 năm trời lại là sự lãng phí cho gia đình, bản thân, Nhà nước và xã hội. Nếu chấp nhận tiêu cực trong thi cử để có được bằng tốt nghiệp THPT thì sẽ làm hại tương lai của các em, làm hại cho gia đình và đất nước. Bệnh thành tích trong giáo dục đã tạo ra các kết quả thi không đúng thực tế, đã và sẽ làm triệt tiêu động lực phấn đấu vươn lên của học sinh, triệt tiêu trách nhiệm của gia đình học sinh, làm mất động lực dạy tốt của các thầy cô giáo, suy cho cùng là đi ngược lại sứ mạng thiêng liêng của các nhà giáo và ngành giáo dục.
Gọi thí sinh vào phòng thi. ảnh gdtd.vn |
Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thảo luận dân chủ, thẳng thắn và trách nhiệm cao về việc cần phải làm gì, đột phá vào đâu và đột phá như thế nào để giải quyết thực trạng trên? Ban Cán sự Đảng đã quyết định một việc rất quan trọng: từ nay không giao chỉ tiêu tỉ lệ tốt nghiệp THPT cho toàn ngành và các tỉnh nữa. Hãy để cho mỗi trường học, mỗi địa phương căn cứ vào điều kiện thực tế của mình, với quyết tâm của mình tự đăng kí mục tiêu, tỉ lệ tốt nghiệp THPT. Lúc bấy giờ (năm 2006) và cho đến tận bây giờ, chỉ có ngành giáo dục là công khai tuyên bố có bệnh thành tích và quyết định “nói không” với bệnh thành tích trong giáo dục. Ngày 31 tháng 7 năm 2006 tại hội nghị tổng kết toàn ngành giáo dục năm học 2005-2006 của bậc phổ thông và mầm non, cuộc vận động “Hai không” (“Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”) được chính thức phát động: giám đốc 64 Sở GD&ĐT, Bộ trưởng và các Thứ trưởng cùng kí vào bản giao ước thi đua của năm học 2006-2007, gửi các đồng chí Tổng bí thư Ban chấp hành TW Đảng, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Với nhận thức: cuộc vận động “Hai không” không thể thành công, nếu không có sự lãnh đạo và hỗ trợ quyết liệt của Đảng, Chính quyền, các ngành, sự ủng hộ của nhân dân, của báo chí, sự phối hợp của các bộ, ngành nên Bộ GD&ĐT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chấp thuận ban hành Chỉ thị số 33/2006/CT-TTG ngày 8-9-2006 về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục giai đoạn 2006-2010.
Cú sốc tích cực
Năm học 2006-2007, toàn ngành giáo dục đã triển khai cuộc vận động “Hai không” đến tất cả các trường trong cả nước, thống nhất nhận thức về cái mà học sinh cần là năng lực làm người, là năng lực vào đời và toàn ngành đã chuẩn bị cho một kì thi tốt nghiệp THPT nghiêm túc. Dự báo trước là sẽ có một tình huống nan giải: rất nhiều học sinh sẽ không qua được kì thi nghiêm túc, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bàn bạc và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho tổ chức cuộc thi tốt nghiệp THPT lần 2, chỉ làm trong 2 hoặc 3 năm.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2007 đã khẳng định hoàn toàn có khả năng tổ chức thi nghiêm túc với kết quả phản ánh sát thực tế học lực của HS. Nhằm tằng cường tính nghiêm túc của kỳ thi tốt nghiệp THPT, năm 2007 lần đầu tiên Bộ GD&ĐT đã huy động giảng viên các trường ĐH, CĐ tham gia thanh tra ở tất cả các hội đồng thi. Cùng với việc rà soát, hoàn thiện quy chế tổ chức thi, sự tự giác cao hơn của học sinh và cán bộ coi thi, kỳ thi năm 2007 đã diễn ra nghiêm túc hơn hẳn so với năm 2006. Đã có đến 2612 thí sinh bị đình chỉ thi, 32 cán bộ bị đình chỉ coi thi vì vi phạm quy chế. Trong khi kỳ thi năm 2006 có 94% học sinh đạt tốt nghiệp THPT, vùng đồng bằng sông Hồng là 99,1% - cao nhất, và vùng đồng bằng sông Cửu Long là 85,2% - thấp nhất (giữa hai vùng chỉ cách nhau gần 14%), năm 2007 tỉ lệ tốt nghiệp THPT (lần 1) chỉ là 66,7%, tức là giảm hơn 27%. Đặc biệt, có một số vùng và địa phương có tỉ lệ sụt giảm rất lớn: vùng núi phía Bắc giảm từ 94,5% xuống còn 45,8%, tức giảm 48,7% (trong đó có tỉnh giảm từ 95,6% xuống còn 14,2%); các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ giảm từ 90,3% xuống còn 60,8%, giảm gần 30%; các tỉnh Bắc Trung Bộ giảm từ 96,5% còn 57,2%, tức giảm hơn 39%. Trong khi năm 2006 cả nước có 9 tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp từ 99% trở lên, tỉnh có tỉ lệ thấp nhất là 74,7% thì năm 2007 chỉ có hai tỉnh đạt cao nhất là từ 90-95% và 12 tỉnh đạt dưới 50%, trong đó có 7 tỉnh dưới 30%. Những kết quả thực và thấp này đã gây “sốc” cho nhiều địa phương và xã hội. Tuy nhiên, ngành giáo dục và xã hội đã được chuẩn bị tư tưởng từ đầu năm học 2006-2007, khi Thủ tướng có chỉ thị về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục. Vì vậy, ngay trong hè 2007, lãnh đạo các địa phương và ngành giáo dục ở các tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp sụt giảm nhiều đã có các nghị quyết, chương trình đặc biệt để chăm lo phát triển giáo dục thực chất ở địa phương và từng trường. Ngành giáo dục chỉ đạo các trường tổ chức phụ đạo trong hè để học sinh đạt chuẩn, nếu không đạt thì cương quyết không đưa lên lớp mà để học lại, khắc phục việc “ngồi sai lớp”. Việc thi nghiêm túc, kết quả thi sát với thực lực hơn cũng làm cho học sinh và phụ huynh thấy rằng tiêu cực trong thi cử để có bằng tốt nghiệp THPT không phải là cách làm khả thi và sẽ không đem lại tương lai cho các em. Tiếp tục khẳng định vai trò quyết định của các thầy cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục, làm rõ hơn đòi hỏi về phẩm chất của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay, năm 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Công đoàn giáo dục Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
Trong khi ráo riết với những giải pháp quyết liệt để thực hiện cuộc vận động “Hai không”, qua các năm 2008, 2009, 2010 toàn ngành đã tập trung phụ đạo học sinh yếu, chăm lo giúp đỡ học sinh nghèo; đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập, trước hết là ở các môn ngữ văn, lịch sử, địa lý và GDCD; đánh giá chương trình và sách giáo khoa trên phạm vi toàn quốc, từ đó triển khai các giải pháp để khắc phục một số hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; hoàn thiện phương thức thi nghiêm túc hơn; xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực…Chất lượng giáo dục được nâng cao trong các kỳ kiểm tra thường xuyên, và kết quả thi cũng phản ánh đúng những nỗ lực của toàn ngành cho chất lượng thật.
Bên cạnh việc tiếp tục phụ đạo học sinh yếu từ đầu năm học, từ năm 2008, ngành đã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM và Hội Khuyến học triển khai cuộc vận động “ba đủ” (đủ ăn, đủ mặc, đủ sách vở) cho tất cả học sinh. Bằng các giải pháp hỗ trợ của toàn ngành, sự ủng hộ của xã hội, lần đầu tiên từ năm học 2008-2009, ngành GD đảm bảo 100% học sinh đủ sách vở. Hàng chục tỉ đồng, hàng triệu bộ quần áo, vở viết, đồ dùng học tập đã được quyên góp cho học sinh những vùng khó khăn. Đến nay đã có 18 tỉnh công bố đảm bảo “ba đủ”.
Năm học 2008-2009 có chủ đề là năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, với sự hỗ trợ trực tiếp của Tập đoàn Viettel, ngành đã triển khai kết nối internet tới tất cả các trường phổ thông và mầm non. Triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” từ năm 2008, môi trường học tập các trường đã được cải thiện rõ rệt theo hướng xanh, sạch, đẹp hơn; hoạt động vui chơi tích cực được các trường triển khai, học sinh năng động và có ý thức xã hội hơn qua các hoạt động chăm sóc và phát huy giá trị hơn 5000 di tích văn hóa lịch sử, 7000 nghĩa trang liệt sĩ, 12800 bà mẹ Việt Nam anh hùng; 800 nhà vệ sinh đã được xây mới, nâng tỉ lệ trường học có nhà vệ sinh đạt hơn 96% sau 2 năm.
Từ năm 2009, thông qua giải pháp thi theo cụm và chấm chéo, tính nghiêm túc của các kì thi một lần nữa lại được nâng cao thêm. Việc ra đề thi tiếp tục được hoàn thiện, sát với chương trình hơn, câu hỏi thi hạn chế yêu cầu thuộc lòng quá nhiều, tăng tính mở của các đề thi.
Với hệ thống giải pháp triển khai kiên trì và đồng bộ, trên phạm vi cả nước 4 năm qua, ý thức tự giác học tập của học sinh, ý thức trách nhiệm của nhà giáo, sự quan tâm của gia đình đối với việc học hành của con em, trách nhiệm của chính quyền địa phương và sự góp sức của các đoàn thể được nâng cao liên tục, làm cho chất lượng học tập được nâng dần từng bước, vững chắc, thể hiện ở kết quả các kì thi tốt ngiệp THPT các năm qua. Tuy nhiên, tiêu cực và bệnh thành tích là “căn bệnh” mang tính xã hội, không chỉ của ngành GD, trong thời gian 4 năm không thể chắc chắn đã hoàn toàn không còn tiêu cực thi cử và bệnh thành tích trong GD, nhưng rõ ràng nó đã được khắc phục một cách cơ bản trong kì thi tốt nghiệp THPT.
Từ năm 2006 đến nay, trong điều kiện thi cử ngày càng nghiêm túc nhưng tỉ lệ tốt nghiệp THPT vẫn được tăng dần qua mỗi năm: năm 2007, tỉ lệ tốt nghiệp THPT (thi lần 1) là 66,7%, năm 2008 (lần 1) là 76%, năm 2009 là 83,6% và năm 2010 là 92,57%. Như vậy sau 4 năm phấn đấu liên tục, tỉ lệ tốt nghiệp THPT đã đạt gần bằng mức của năm 2006 là 94%, có điều khác căn bản: đây là kết quả thực chất, gian lận có tổ chức trong thi cử đã hoàn toàn chấm dứt. Năm 2010, theo phản ảnh của các báo chí, vẫn còn hiện tượng thi chưa nghiêm túc: thí sinh hỏi bài nhau, cặp sách để ở cửa sổ phòng thi, thí sinh vứt “phao” trong phòng thi sau khi kết thúc thi nhưng là những con số rất ít. Có ý kiến cho là kết quả thi 2010 với tỉ lệ tốt nghiệp 92,57% là tăng cao đột biến. Thực tế là, năm 2008 kết quả tốt nghiệp cao hơn năm 2007 là 9,3%, năm 2009 cao hơn 2008 là 7,6%; như vậy, năm 2010 tăng hơn năm 2009 là 8,97% và có 7 tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp 99% trở lên (không có 100%), có 10 tỉnh, thành phố tỷ lệ tốt nghiệp dưới 80%, trong đó có 3 tỉnh thấp nhất là 69% phải được coi là một kết quả bình thường.
Niềm vui sau khi hoàn thành tốt bài thi (Hà Nội). Ảnh: gdtd.vn |
Có ý kiến cho là năm 2010 đề thi dễ nên điểm tốt nghiệp cao, đây chỉ là một suy đoán không có cơ sở. Dễ thấy rằng, nếu đề quá dễ thì tất cả các tỉnh đều phải có kết quả tốt nghiệp năm 2010 cao hơn năm 2009. Song thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Trong khi đa số các tỉnh có kết quả năm 2010 cao hơn năm 2009 thì lại có 7 tỉnh, thành phố kết quả của khối THPT năm 2010 giảm hoặc không tăng so với năm 2009 là TP Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Tiền Giang, Trà Vinh, Bình Thuận, Bến Tre, Điện Biên. Nếu đề quá dễ thì tỉ lệ tốt nghiệp của thí sinh hệ GDTX cũng phải cao, song thực tế có đến 21 tỉnh, thành phố có tỉ lệ tốt nghiệp từ 13% đến dưới 40% và có đến 30 tỉnh, thành phố tỉ lệ tốt nghiệp dưới 50%. Nếu đề quá dễ thì chẳng những tỉ lệ tốt nghiệp phải tăng mạnh mà tỉ lệ tốt nghiệp loại khá giỏi cũng phải tăng, song thực tế năm 2007 tỉ lệ khá giỏi là 10,6%, năm 2008 là 11,1%, năm 2009 là 11,2% và năm 2010 là 10,02%. Như vậy so với 3 năm trước tỉ lệ khá giỏi năm 2010 không những không tăng mà còn giảm và là thấp nhất.
Như vậy qua 4 năm thực hiện cuộc vận động “Hai không”, kì thi tốt nghiệp THPT đã đi vào nền nếp, trật tự, ổn định; thái độ của đa số học sinh về học tập và thi cử đã có chuyển biến cơ bản; tỉ lệ học sinh lớp 12 tốt nghiệp THPT tăng từ 66,7% lên hơn 92%. Mặc dù Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục không giao chỉ tiêu tỉ lệ tốt nghiệp cho các tỉnh và cả nước, song vì lợi ích của chính mình, các em học sinh, các thầy cô giáo và gia đình sẽ tiếp tục nỗ lực để duy trì và nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp một cách thực chất, vững chắc. Từ khâu đột phá là cuộc vận động “Hai không”, ngành giáo dục đã triển khai một cuộc vận động lâu dài là “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” từ năm 2007 và một phong trào thi đua lâu dài là “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” từ năm 2008.
Trên nền tảng cơ bản mà toàn ngành đã đạt được về chiều rộng, ngành sẽ phải tập trung trong 10 năm tới để đạt được sự phát triển về chiều sâu: tăng tỉ lệ tốt nghiệp khá giỏi và biến năng lực sử dụng ngoại ngữ trở thành kĩ năng sống của học sinh Việt Nam. Từ kinh nghiệm của 4 năm thực hiện cuộc vận động “Hai không”, chúng ta sẽ quyết tâm phấn đấu để đạt mục tiêu đó. Nhận thức đúng đắn về lợi ích học hành của HS và gia đình các em, ý thức trách nhiệm và niềm tự hào nghề nghiệp của các thầy cô giáo, ý thức chính trị của Lãnh đạo Đảng và Chính quyền các địa phương chính là động lực đảm bảo cho sự thành công.
Ý kiến bạn đọc