Hiệu quả từ Dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng ở Đồng Văn
HGĐT- Dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng 4 huyện vùng cao núi đá, trong đó có huyện Đồng Văn được triển khai thực hiện từ năm 2008 trên phạm vi 19/19 xã, thị trấn. Từ khi thực hiện đến nay, dự án đã mang lại những hiệu quả khá thiết thực cả về mặt kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng.
Rừng khoanh nuôi tại xã Lũng Cú. |
Trên cơ sở các quyết định của tỉnh giao kế hoạch hàng năm, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của ngành cấp trên, UBND huyện đã cụ thể hóa các văn bản để tổ chức triển khai thực hiện bằng việc ban hành các quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho các xã, thị trấn; các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện tại cơ sở. Các hoạt động chính cuả dự án như: Bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng, chăm sóc rừng... được thực hiện với trách nhiệm cao của Ban quản lý dự án và người dân tham gia dự án. Về công tác bảo vệ rừng, năm 2008 thực hiện được 5.559,5 ha/11.812,4 ha, đạt 47% diện tích so mục tiêu dự án và bằng 100% so với kế hoạch năm. Đến năm 2011, thực hiện được 9.644,8 ha/11.812,4 ha bằng 80% diện tích so mục tiêu dự án và bằng 100% so với kế hoạch năm. Về khoanh nuôi tái sinh rừng, năm 2008 khoanh nuôi được 5.980 ha/5.980 ha bằng 100% diện tích so mục tiêu dự án và bằng 100% so với kế hoạch năm. Năm 2011: 8.521 ha/5.980 ha bằng 142% diện tích so mục tiêu dự án và bằng 100% so với kế hoạch năm. Công tác chăm sóc rừng thực hiện được 3.007,1 ha bằng 100% so với kế hoạch giao hàng năm (2008 giao 628,3 ha; năm 2009 giao 787,5 ha; năm 2010 giao 733,4 ha; năm 2011 giao 857,9 ha). Ngoài ra, công tác trồng rừng phòng hộ, rừng sản xuất trong vùng dự án của huyện đều thực hiện 100% so với kế hoạch năm.
Để thực hiện được những con số nêu trên, Ban quản lý dự án đã tập trung làm tốt công tác xây dựng cơ bản phục vụ dự án như: Cải tạo nâng cấp 02 vườn ươm tại thị trấn Đồng Văn cung cấp cây giống trồng rừng mỗi năm tư 400.000 - 500.000 cây, đáp ứng được 70 - 80% cây giống trồng rừng của huyện. Xây 2 bể nước phòng chống cháy rừng tạixã Sủng Là và Lũng Táo. Làm biển tuyên truyền quản lý bảo vệ rừng cấp cho 224/224 thôn bản. Cắm đặt 84 mốc phân biệt 3 loại rừng. Tập huấn kỹ thuật trồng các loại cây lâm nghiệp; công tác khoanh nuôi, nuôi dưỡng rừng; thông báo cơ chế hỗ trợ của Nhà nước đối với công tác giao khoán khoanh nuôi, bảo vệ, trồng chăm sóc rừng; chương trình hỗ trợ gạo của Chính phủ...; trách nhiệm, quyền lợi của người dân khi tham gia dự án... Hiện nay thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp của các hộ gia đình chủ yếu từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước. Về mặt kinh tế các sản phẩm thu từ lâm sản chiếm không đáng kể. Với định mức hỗ trợ bình quân hàng năm cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, mỗi hộ tham gia dự án nhận được khoảng 800.000đồng/hộ/năm. Ngoài ra còn nhận được hỗ trợ lương thực của Nhà nước, đây là nguồn thu đáng kể đối với đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, từng bước cải thiện đời sống vật chất, góp phần xoá đói, giảm nghèo. Người dân rừng trồng sản xuất đang kỳ vọng vào rừng khi đến tuổi khai thác sẽ là nguồn thu lớn đối với các hộ gia đình.
Hiệu quả về mặt xã hội của dự án la làm thay đổi tập quán của người dân từ trước tới nay chỉ biết dựa vào rừng tự nhiên khai thác gỗ, củi phục vụ nhu cầu đời sống. Đến nay đã biết trồng rừng, sử dụng sản phẩm từ rừng trồng để thay thế cây rừng tự nhiên. Thu hút được trên 10.000 hộ gia đình trên địa bàn huyện tham gia vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, từng bước cải thiện đời sống cho đồng bào, góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Về môi trường, đã góp phần nâng độ che phủ rừng , phát huy chức năng phòng hộ đầu nguồn, hạn chế xói mòn, rửa trôi đất và duy trì được nguồn nước phục vụ sinh hoạt. Từ việc thực hiện dự án đã từng bước cải thiện môi trường sinh thái, thay đổi môi trường sống có lợi cho con người. Hệ thống rừng được tạo lập đã tạo nên môi trường xanh, góp phần bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa phục vụ cho phát triển du lịch, phát triển kinh tế. Về an ninh quốc phòng, tạo vành đai xanh bảo vệ biên cương Tổ quốc; các chính sách hỗ trợ của Dự án làm cho đời sống của đồng bào các dân tộc từng bước được cải thiện, ổn định. Góp phần hạn chế được tình trạng người dân vượt biên sang Trung Quốc lao động tự do gây mất trật tự trị an vùng biên.
Đây là dự án hỗ trợ trực tiếp đến nhân dân, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân các dân tộc trong huyện, thông qua dự án người dân đã thấy được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đời sống nhân dân các dân tộc vùng cao, tạo lòng tin tưởng tuyệt đối của người dân vào chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Ý kiến bạn đọc