Cây chè - mũi nhọn để phát triển kinh tế
HGĐT- Trong những năm qua, tỉnh ta đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành và có những giải pháp, chính sách phù hợp khuyến khích phát triển câychè, nên diện tích chè của tỉnh tăng nhanh, diện tích trồng mới hàng năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch. Đến nay đã hình thành nên những vùng sản xuất chè hàng hoá tập trung, phát triển các cơ sở sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, chính vì vậy vị thế của cây chè Hà Giang ngày càng được khẳng định.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010 trong đó giải pháp phát triển kinh tế đã được chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh cây công nghiệp, coi cây chè là cây hàng hoá mũi nhọn của tỉnh, trồng mới 500 ha/năm chủ yếu là giống chè Shan, đưa diện tích chè của tỉnh lên 17.500 ha vào năm 2010. Cải tạo thâm canh để nâng năng suất chè lên 70 tạ /ha (tăng gấp 2 lần so với năm 2005), đưa sản lượng chè búp tươi đạt trên 100.000 tấn/năm. Thực hiện nghị quyết này, ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh đã xây dựng chuyên đề để thực hiện mục tiêu trên. Theo kết quả rà soát đến nay toàn tỉnh có tổng diện tích chè 17.332 ha, diện tích trồng mới hàng năm bình quân đạt 545 ha/năm đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. So với năm 2005 diện tích chè đã tăng 2.535,3 ha (16,7%) và vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết XIV của tỉnh Đảng bộ đề ra là 552,3 ha (chỉ tiêu đến 2010 tổng diện tích chè toàn tỉnh là 17.500 ha. Diện tích chè của tỉnh chủ yếu tập trung tại các huỵện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, Xín Mần. Diện tích chè phân bổ tại các huyện này chiếm tới 90% tổng diện tích chè của tỉnh (15.609,5 ha/17.332,2 ha), các xã có diện tích chè tập trung lớn như: Tân Lập, Tân Thành (Bắc Quang); Yên Bình, Tân Trịnh, Tiên Nguyên, Xuân Minh (Quang Bình); Thượng Sơn, Quảng Ngần, Thanh Thuỷ (Vị Xuyên); Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Nam Sơn (Hoàng Su Phì); Nà Trì, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên, Cốc Rế (Xín Mần). Tuy diện tích chè tăng lên theo từng năm nhưng năng suất bình quân qua các năm đạt không cao, như năm 2005 đạt 31,35 tạ/ ha, đến năm 2009 mới tăng lên 41,1 tạ/ha, bằng 59% nghị quyết XIV đề ra và đạt khoảng 63% so với mức năng suất trung bình của cả nước. Thực tế cho thấy năng suất chè không đồng đều giữa các vùng của tỉnh như khu vực Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên năng suất chè bình quân đạt trên 38 tạ/ ha, cá biệt có 255,8 ha diện tích chè của Công ty cổ phần Hùng An năng suất đạt 70 tạ/ha, bằng chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Những vùng có năng suất chè thấp như Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xín Mần diện tích khoảng 4.373,6 ha năng suất bình quân chỉ đạt 30 tạ/ ha. Nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến năng suất đạt thấp đó là người dân chưa chú trọng đến thâm canh nhằm tăng năng suất, mặc dù tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ đầu tư thâm canh như cho vay vốn có hỗ trợ lãi suất để đầu tư thâm canh, cải tạo các diện tích chè già…Cùng đó do trồng chè chủ yếu bằng hạt, các vườn chè không đồng đều, mật độ thưa, nhiều diện tích chè trồng lâu đã già cỗi có biểu hiện suy thoái, việc thực hiện quy trình trồng, chăm sóc và đầu tư thâm canh không bảo đảm, phần lớn người dân trồng quảng canh, trồng chè nhưng không gắn với chăm bón. Quy trình thu hoạch cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và chất lượng chè. Việc thu hái chè hầu hết của người dân hiện nay vẫn còn thực hiện theo tập quán cũ, chưa đúng quy trình kỹ thuật dẫn đến làm giảm năng suất cũng như chất lượng chè trên một đơn vị diện tích như hái quá lứa, hái quá đau, không thực hiện đốn tỉa đúng thời vụ, số lần hái không phù hợp….
Để tiếp tục phát huy tiềm năng lợi thế của cây chè Hà Giang với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước, ngành Nông nghiệp và PTNT của tỉnh đã đánh giá cụ thể những mặt làm được, những hạn chế tồn tại trong những năm vừa qua, đồng thời xây dựng phương hướng và các giải pháp để thực hiện trong những năm tới, khai thác tối đa tiềm năng lợi thế của tỉnh, đẩy mạnh công nghệ chế biến chè của tỉnh, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập ổn định cho nhân dân, góp phần tích cực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở địa phương, tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung. Trước mắt trong năm 2010 phấn đấu trồng mới 700 ha, để đưa tổng diện tích chè toàn tỉnh lên 18.000 ha, trong đó có trên 16.000 ha chè kinh doanh. Xây dựng vùng chè tập trung gắn với đầu tư các cơ sở chế biến sản phẩm xuất khẩu tại các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì. Kết hợp phát triển vùng chè đặc sản như chè Ngam La, chè Lũng Phìn và một số nơi có điều kiện. Bên cạnh đó đẩy mạnh đầu tư thâm canh, phấn đấu đưa năng suất bình quân của tỉnh đến hết năm 2010 đạt trên 42 tạ/ ha, đến 2015 năng suất chè bình quân đạt 50 - 60 tạ/ha. Sản lượng chè búp tươi phấn đấu đến 2015 đạt trên 10 vạn tấn, trong đó xuất khẩu chè khô thành phẩm đạt trên 3.500 tấn vào năm 2010 và đến năm 2015 đạt trên 5000 tấn. Cùng đó, đẩy mạnh việc đầu tư cải tạo các vườn chè già, trồng bổ sung các diện tích chè bị mất cây, có mật độ thấp (theo kết quả rà soát đánh giá thực trạng cây chè năm 2009 toàn tỉnh có 9.311,9 ha chè không bảo đảm mật độ cần trồng bổ sung) nhằm nâng cao chất lượng các vườn chè, tận dụng tối đa hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất, sản lượng và hiệu quả từ sản xuất trồng chè. Khuyến khích đầu tư công nghệ chế biến, nâng cấp các cơ sở chế biến đạt các tiêu chuẩn ISO và CTC. Đây là mục tiêu chiến lược nhằm làm tăng sản lượng sản phẩm xuất khẩu và giá trị sản phẩm chè Hà Giang. Mặt khác tăng cường tập huấn về kỹ thuật trồng và chăm sóc chè cho đội ngũ khuyến nông vùng chè để nâng cao trình độ hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật cho người nông dân; tăng cường công tác khuyến cáo về chè thông qua nhiều kênh tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật cho người nông dân; tăng cường việc thực hiện xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức, đẩy mạnh việc đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu chè Hà Giang, quảng cáo tiếp thị tạo ra thị trường ngày càng lớn để có thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài đạt được mục tiêu xuất khẩu trên 4.000 tấn vào năm 2010…Đặc biệt tăng cường hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước cải tạo nâng cấp cải tiến công nghệ chế biến chè. Xây dựng nhà máy tinh chế chè với thiết bị công nghệ tiên tiến có công suất 5.000 tấn sản phẩm/năm, mua nguyên liệu thô từ các xưởng chè nhỏ để tinh chế thành sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Xây dựng thêm một số nhà máy chế biến chè xanh, chè đen với thiết bị tiên tiến, mỗi nhà máycó công suất chế biến 15 tấn búp tươi/ngày tại các vùng nguyên liệu chè tập trung...
Ý kiến bạn đọc