Thế mạnh phát triển cây chè Hoàng Su Phì
(HGĐT)- Cây chè “có mặt” trên đất Hoàng Su Phì từ những năm đầu thế kỷ XX và đã trở thành một trong những vùng nguyên liệulớn của tỉnh. Trải qua hàng trăm năm thăng trầm, chè vẫn là cây “sống đời” đối với nông trong dân huyện.
Những tiềm năng phát triển:
Là huyện vùng cao núi đất của tỉnh, Hoàng Su Phì có tổng diện tích tự nhiên trên 63.000 ha, trong đó đất cây lâu năm có 7.000 ha, với loại đất chủ yếu là feralit màu vàng đỏ phát triển trên đá biến chất, có hàm lượng mùn tương đối lớn, tầng canh tác dầy trên 70 cm; khí hậu có mùa đông lạnh và sương mù, mùa hè mưa nhiều và ẩm, thời tiết trong năm được chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. So với các huyện phía Đông của dãy núi Tây Côn Lĩnh, Hoàng Su Phì có địa hình chia cắt mạnh, rất phức tạp, độ cao từ 600-2.400m so với mực nước biển. Do có khí hậu khô, biên độ ngày đêm lớn, đã tạo ra việc tích lũy chất khô, trong đó có một số hợp chất thơm của cây chè... Đó là những điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển vùng nguyên liệu chè của tỉnh. Hơn nữa, Hoàng Su Phì có tiềm năng lao động rất lớn với gần 57.000 người, trong đó có trên 29.000 người ở độ tuổi lao động, chủ yếu là dân bản địa và dân di cư, dân kinh tế... Nhìn chung, người dân nơi đây có tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, giàu kinh nghiệm truyền thống, đồng thời tiếp cận nhanh nhạy KH-KT ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp.
Những điểm chưa khai thác hết:
Hiện toàn huyện có trên 3.000 ha chè, trong đó hơn 2.600 ha chè thu hoạch, với chủng loại chè chủ yếu làgiống Shan tuyết lá to. Toàn bộ diện tích chè của huyện trồng bằng hạt và ươm bằng cây con, được trồng xen lẫn với cây rừng, trồng phân tán. Vì vậy mật độ chè thưa, bình quân từ 1.200-1.500 gốc/ha. Các vườn chè lớn chủ yếu nằm ở các xã Nậm Ty, Túng Sán, Bản Péo, Tả Sử Choóng thuộc dải Tây Côn Lĩnh và xã Hồ Thầu là đầu nguồn sông Chảy, nên những đồi chè Shan quanh năm mây phủ, tạo nên sản phẩm chè Shan tuyết đặc sản của huyện.
Trong những năm qua, được sự đầu tư hỗ trợ của tỉnh, huyện về vốn vay lãi suất, giống chè, nhân dân trong huyện đã tập trung trồng mới mỗi năm được trên 200 ha. Tuy nhiên do chè trồng rải rác, xen lẫn nhiều cây lâm nghiệp, huyện lại chưa có quy hoạch rõ vùng chè cụ thể nên chưa tập trung trồng thành vùng; tập quán đốn, hái của nhân dân còn lạc hậu, chưa tạo cho cây chè có bộ khung tán và mật độ búp lớn, nên năng suất đạt thấp; điều kiện kinh tế của nhân dân vùng chè còn nhiều khó khăn... Song những năm qua, nhờ các hành lang pháp lý thông thoáng trên lĩnh vực đầu tư, huyện đã có 15 Hợp tác xã và cơ sở sản xuất chè với công suất bình quân chế biến đạt 50 tấn/năm. Ngoài những cơ sở chế biến, từ năm 2000 trở lại đây, bà con còn phát triển máy chế biến mi ni, công suất bình quân 1 máy từ 200-300 kg chè búp tươi/ngày, sản lượng chè xanh được chế biến từ máy mi ni đạt 40-80 tấn/năm; sản phẩm chính là chè xanh và chè vàng. Tuy nhiên, việc tiêu thụ chè trên địa bàn huyện còn mang tính tự phát do các tư thương thu mua nên giá cả không ổn định, gây thiệt hại cho người dân; huyện và các cơ sở chế biến cũng chưa có kế hoạch tiêu thụ chè tổng thể trên địa bàn, chưa xác định được số lượng, chủng loại chè, chất lượng mẫu mã... nên chưa xây dựng được kế hoạch thị trường và kế hoạch thu mua nguyên liệu cho sản xuất. Do vậy, nhìn tổng thể cây chè Hoàng Su Phì vẫn mất cân đối giữa tiềm năng, năng lực sản xuất và năng lực chế biến tại chỗ, nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển một cách tương xứng.
Định hướng quy hoạch đến 2010 và 2015:
Định hướng phát triển KT-XH đến năm 2010 được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnhlần thứ XIV: “ Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo sức mạnh đoàn kết các dân tộc, phát huy nội lực; khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế tạo bước đột phá trong tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng phát triển, vượt ra khỏi tỉnh nghèo...”. Theo đó, Hoàng Su Phì phấn đấu đến năm 2010, diện tích chè toàn huyện đạt 3.800-4000 ha, trong đó có 3.000 ha chè cho thu hoạch, năng suất bình quân đạt 35 tạ/ha; trồng mới và trồng dặm 1.000 ha; trồng 200 ha chè giống mới chất lượng cao tại 5 xã Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Túng Sán, Nàng Đôn. Đẩy mạnh và nâng cao công nghệ chế biến chè xanh, xây dựng hoàn chỉnh 5 cụm chế biến chè chất lượng cao, công suất mỗi cụm đạt 200 tấn/năm; xây dựng xong thương hiệu chè Hoàng Su Phì, đồng thời thành lập các đại lý giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm chè tại địa bàn huyện và trong, ngoài tỉnh. Coi trọng công tác khuyến nông cùng các chính sách về miền núi, dân tộc, xã hội, nông thôn, vay vốn rộng rãi đến nông dân, đầu tư vốn dài hạn cho các doanh nghiệp..., từ đó thiết lập môi trường sản xuất - tiêu thụ sản phẩm chè vận hành đồng bộ.
Với những định hướng cùng giải pháp cụ thể, Hoàng Su Phì đã và đang sẵn lòng chào đón các nhà đầu tư đến khai thác thế mạnh cây chè, góp phần phát triển KT-XH trong toàn tỉmh.
Ý kiến bạn đọc