Khảo nghiệm thành công giống đậu tương mới phù hợp trên đất một vụ tại Hà Giang
HGĐT- Trong những năm qua, Hà Giang là tỉnh dẫn đầu trong các tỉnh miền núi phía Bắc về diện tích trồng cây đậu tương. Sau cây ngô, cây đậu tương thực sự là cây nông sản hàng hóa có giá trị và trở thành cây hàng hóa quan trọng, giúp cải thiện đáng kể đời sống đồng bào các dân tộc, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên năng suất và hiệu quả của cây đậu tương còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng đất đai của tỉnh.
Hội nghị đầu bờ mô hình đậu tương thu - đông 2010, xã Bản Ngò (Xín Mần).
|
Nhằm mục đích nghiên cứu, tìm giải pháp hữu hiệu để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất đậu tương trên đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 613/QĐ-UBND ngày 08/3/2010 nhất trí cho Viện Di truyền Nông nghiệp thực hiện đề tài khoa học “Nghiên cứu ứng dụng giống đậu tương chịu hạn, năng suất cao, phù hợp trên chân đất 1 vụ của tỉnhHà Giang”, Đề tài do PGS.TS. Mai Quang Vinh – chuyên gia đầu ngành Việt
Mục tiêu của đề tài là: xác địnhđược giống đậu tương cho năng suất 20-25 tạ/ha và quy trình canh tác phù hợp với điều kiện đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang, góp phần mở rộng diện tích đậu tương trên đất 1 vụ của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm, tăng hiệu quả sử dụng và cải thiện độ phì nhiêu của đất.
Đề tài chọn 3 huyện đại diện cho 3 vùng đặc trưng của tỉnh Hà Giang gồm: huyện Xín Mần– đại diện cho vùng núi đất phía Tây, huyện Yên Minh – đại diện cho vùng thấp của 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc, huyện Đồng Văn – đại diện vùng cao nguyên đá cực Bắc.
Với 7 giống đậu tương tham gia các thí nghiệm tuyển chọn giống là ĐT26, DT96, DT2001, DT2006, DT2008, DT84 (ĐC 1), VXHG (ĐC2) tại vụ xuân và thu đông năm 2010 trên chân đất 1 vụ tại các huyện triển khai đề tài, trong đó các giống DT96, DT2001, DT2006, DT84 (ĐC 1), VXHG (ĐC2) đã và đang được triển khai đại trà trên địa bàn tỉnh được sử dụng làm đối chứng. Sau 2 vụ khảo nghiệm trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, các chuyên gia của Viện Di truyền Nông nghiệp đã xác định được 2 giống triển vọng cho năng suất cao phù hợp với điều kiện sinh thái, canh tác của Hà Giang là DT2008 và ĐT26. Tiếp tục tiến hành thí nghiệm về phân bón, mật độ, thời vụ thích hợp cho 2 giống triển vọng ở từng địa điểm (thí nghiệm Quy trình canh tác). Kết quả khảo nghiệm đã cho thấy giống đậu tương triển vọng DT2008 có khả năng chống chịu tốt với các loại sâu, bệnh và điều kiện bất thuận, chịu hạn, chịu rét tốt (vụ Xuân tại Xín Mần), sinh trưởng phát triển mạnh, năng suất trong thí nghiệm với các điều kiện khó khăn đã đạt 15 - 18 tạ/ha, trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 20 - 25 tạ/ha (thời gian sinh trưởng vụ xuân từ 110 – 120 ngày, vụ hè thu từ 81 – 85 ngày). ĐT26 có thời gian sinh trưởng ngắn hơn, chống chịu khá, năng suất đạt 15 - 20 tạ/ha (thời gian sinh trưởng vụ xuân từ 90 – 100 ngày, vụ hè thu từ 70 – 80 ngày).
Các nhà khoa học của Viện Di truyền nông nghiệp đã xây dựng thành công quy trình canh tác cho 2 giống triển vọng ĐT26 và DT2008 phù hợp với điều kiện chân đất 1 vụ của Hà Giang. Lượng phân bón thích hợp cho 2 giống là 1,8 tấn phân chuồng + 30 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O cho 1ha. Vụ Xuân mật độ của ĐT26 và DT2008 là 30 cây/m2. Vụ Hè thu, mật độ ĐT26 là 30 cây/m2 và DT2008 là 20 cây/m2. Ngoài ra trong quá trình khảo nghiệm đã tập huấn nâng cao kiến thức gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản đậu tương cho 150 người dân nơi thực hiện đề tài.
Như vậy, sau 2 vụ (xuân và thu đông năm 2010) khảo nghiệm rất khó khăn do thời tiết, khí hậu không thuận lợi, đề tài đã thu được các kết quả cơ bản phù hợp mục tiêu ban đầu đặt ra, giống đậu tương DT2008 và ĐT26 cho năng suất cao hơn từ 1,5 – 2 lần so với các giống cũ tại địa phương đang trồng. Qua đó, có thể nói giống đậu tương DT2008 và ĐT26 có khả năng thích hợp với các điều kiện sản xuất khó khăn trên đất 1 vụ của các huyện vùng cao Hà Giang. Cũng từ những kết quả khả quan đó, vụ thu đông năm 2010 đã có 3 huyện mở rộng mô hình trồng cây đậu tương DT2008. Huyện Đồng Văn có 10 xã thực hiện mở rộng 5ha, năng suất trung bình đạt 15 – 17 tạ/ha, cao nhất đạt 22 – 24 tạ/ha. Huyện Xín Mầntrồng 1ha tại xã Cốc Pài năng suất đạt 14 tạ/ha (cao gấp 2 lần DT84). Huyện Bắc Mê trồng 6 ha tại xã Đường Hồng, năng suất đạt16 tạ/ha.
Kết quả từ các mô hình của đề tài cho thấy, trồng cây đậu tương trên đất 1 vụ là giải pháp khoa học nâng cao năng suất cây trồng trên một đơn vị diện tích, góp phần tăng thu nhập chocác nông hộ. Mặt khác, từ kết quả của đề tài cho thấy: có thể coi cây đậu tương là cây trồng chính để phát triển kinh tế gia đình cũng như phát triển KT-XH của các tiểu vùng có điều kiện thích hợp trồng cây đậu tương (trước đây người dân coi cây đậu tương là cây trồng phụ nên không đầu tư đúng mức để gieo trồng). Nếu chăm sóc đúng cách, cây đậu tương DT2008 sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nữa và hoàn toàn thay thế các giống cũ. Đây là tín hiệu đáng mừng, thiết thực góp phần nâng cao năng suất đậu tương từ 11 tạ/ha hiện nay lên 16,1 tạ/ha, diện tích từ 21 ngàn ha lên 25 ngàn ha phục vụ Đề án phát triển cây đậu tương giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến 2020 của tỉnh.
Ý kiến bạn đọc