Lũ dữ là "sản phẩm" của chính chúng ta!
Khi không còn dòng chảy, nước đã "lao" vào nhà, đẩy con người ra khỏi chỗ ở. |
- Cơn lũ vừa qua lượng mưa không quá lớn nhưng nước về các sông lại cao bất thường. Tình hình đó lại diễn ra trên diện rộng và có nhiều diễn biến không mang tính qui luật như trước. Đây là nguyên nhân lớn nhất của thiệt hại, là một xu hướng đáng ngại và khá rõ nét của toàn cầu cũng như ở VN. Đó là sự xáo trộn qui luật tự nhiên, kể cả qui luật thiên tai cũng có thay đổi.
Sự thay đổi này là kết cục của những biến động kéo dài ở từng thành phần môi trường như địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng... cộng hưởng sự phát tác đó và gây tai họa. Con người đã làm biến dạng sơ đồ qui luật tự nhiên bởi hiệu ứng nhà kính, phá rừng, ngăn sông, lấn biển... Và thiên nhiên đã nổi giận bằng chính những vết thương của nó.
VN là một trong mười quốc gia chịu tác động lớn nhất về hiện tượng nước biển dâng cao. Trong 16 loại thiên tai của hành tinh thì chúng ta có nguy cơ gặp 2/3 số đó. Riêng về bão lũ, nước ta cũng là một cái rốn gió và nước của khu vực. Cộng với sự biến động tự nhiên toàn cầu rất đáng lo ngại thì hơn bao giờ hết, VN phải tham gia cuộc cứu vớt môi trường, cứu chính sự sống của mình. |
Các nhà khoa học không quá lo xa khi nói rằng con người có thể lâm vào tình trạng không thể "chuộc lỗi" được với thiên nhiên. Các vấn đề nước biển dâng cao, băng tan, nhiệt độ nóng, ô nhiễm khí thải đã gần chạm vào giới hạn cuối cùng. Tàn phá thì chỉ mất vài năm, vài tháng nhưng để phục hồi thì phải nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ.
* Thưa ông, ở VN điều gì đã tác động đến những thành phần môi trường đó?
- Đầu tiên là rừng đầu nguồn đã không còn đủ sức thực hiện hai nhiệm vụ tối quan trọng trong chống lũ là ngấm nước và cản nước.
Tiếp theo, chúng ta có nhiều đê, đập và các công trình xây dựng xâm lấn, tác động cả chủ ý và vô ý vào dòng chảy. Chưa có một tính toán khoa học tổng thể nên hiệu quả trị thủy của những công trình này có thể đạt ở khu vực, địa phương nào đó nhưng lại phản tác dụng trong bức tranh tổng thể.
Tình trạng khai thác cát sỏi, tác động bồi lắng... lòng sông nhiều năm, nhiều nơi cũng làm tổn thương đường thoát lũ mà bản thân thiên nhiên đã tự điều hòa. Tại các cửa sông chảy ra biển cũng bị biến dạng nhiều bởi các công trình đô thị hóa, lấn biển... Nước ở trên tràn nhiều hơn nhưng dòng chảy chậm hơn, cửa thoát khó hơn dẫn đến ngập lụt và bục phá.
* Ở cấp vĩ mô, chúng ta đã làm gì trước tình trạng này?
- Liên Hiệp Quốc đã lấy mười năm cuối cùng của thế kỷ 20 làm thập niên "giảm nhẹ thiên tai". Nhiều quốc gia đã xây dựng chương trình hành động toàn quốc về ứng xử với nước biển dâng cao, băng tan hay sóng thần, núi lửa... Chúng ta từng có dự định lập chương trình quốc gia về vấn đề này nhưng sau lại được "gọt" nhỏ lại thành chương trình riêng chống bão lũ. Bão lũ thuộc trách nhiệm của ngành nông nghiệp nên cuối cùng nó lại về bộ này.
Cần tránh tư tưởng nghe những nguy cơ tiềm ẩn thì thấy quá xa, nghe những mất mát trước mắt thì cứu trợ tức thời rồi quên mất trách nhiệm phải làm gì để những cơn lũ, trận bão sau không gây thiệt hại lớn hơn...
* Theo ông, VN có thể làm gì trước sự giận dữ của thiên nhiên?
- Chúng ta cần có một tư duy khoa học nghiêm túc và đầy đủ về thiên tai, môi trường. Từ đó xây dựng một chương trình quốc gia, một chiến lược tổng thể để đối phó. Còn tất cả biện pháp đơn lẻ thì ai cũng biết như trồng rừng, giảm thiểu khí thải, quản lý khai thác khoáng sản... Vấn đề là phải làm thế nào cho tốt mà thôi.
Ý kiến bạn đọc