Rác thải CNTT đi về đâu?

08:13, 03/10/2008

Hằng năm, các nhà sản xuất tung ra thị trường toàn cầu khoảng 130 triệu máy tính, số máy và thiết bị thải loại cũng xấp xỉ con số đó. Người ta vẫn thường cho rằng CNTT - viễn thông là công nghệ sạch. Tuy nhiên, bên trong các thiết bị, đặc biệt là máy tính, có không ít chất độc hại cho sức khỏe và môi trường.


Có nhiều lý do để thải loại các thiết bị CNTT: thiết bị đã hết hạn sử dụng, không còn đáp ứng được nhu cầu công việc; việc nâng cấp lên những thiết bị mới nhỏ hơn, mạnh hơn đã khiến cho vòng đời của nhiều thiết bị trở nên ngắn mặc dù chúng vẫn còn sử dụng được; việc chuyển sang trụ sở mới cũng có thể là nguyên nhân để vứt bỏ nhiều hệ thống cũ; thậm chí, thải loại thiết bị cũ để trang bị thiết bị mới cho phù hợp với xu thế…

83% rác điện tử không được tái chế

Tốc độ phát triển chóng mặt của CNTT ở các nước phát triển đang làm số máy cũ bị thải loại tăng vọt. Theo nhiều nhà phân tích, thay vì được tái chế, hầu hết máy tính cũ ở châu Âu và châu Mỹ đều bị vứt bỏ. Chỉ riêng tại Anh, mỗi năm có khoảng 135.000 tấn thiết bị CNTT bị vứt ra các bãi rác. Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ cho biết, tại nước này, lượng thiết bị phế thải chưa được xử lý hiện có thể lên tới 235 triệu tấn.

Hiện nay, nhiều người dùng không chỉ một mà nhiều máy tính. Máy ở nhà, ở văn phòng, lúc di chuyển với laptop hoặc máy tính bỏ túi... Theo nhịp độ phát triển công nghệ và thiết bị, mọi người có khuynh hướng sắm liên tục những sản phẩm tốt hơn và vứt bỏ những thiết bị đã qua sử dụng nhanh hơn. Do thiếu hiểu biết về tác hại của các chất độc hại có trong máy tính, nhiều người thản nhiên vứt máy cũ ra bãi rác.

Năm qua, số máy tính lạc hậu, có thể vứt bỏ đã vượt quá số máy tính mới xuất xưởng. Hội đồng An toàn quốc gia Mỹ (National Safety Council) nhận định sẽ có hơn 800 triệu máy tính trở thành lỗi thời vào năm 2009, làm phát sinh 4,3 triệu tấn rác nhựa và 1,116 triệu tấn chì. Với một lượng lớn thiết bị máy tính (chưa kể ti-vi, máy in và thiết bị kỹ thuật số cá nhân - PDA) sắp bị thải loại như vậy, các doanh nghiệp và người tiêu dùng buộc phải tính đến việc xử lý thế nào để bảo đảm an toàn cho sức khỏe, môi trường sống bởi chì, thủy ngân, cadmium, chromium... có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Thiết bị CNTT ngày càng được tái chế nhiều và quay trở lại phục vụ con người. Một số công ty CNTT đã bán thiết bị cho công ty tái chế. Nhiều nhà sản xuất đã đưa ra các chương trình nhận lại máy để giảm bớt gánh nặng vứt rác điện tử ở người sử dụng. 

Tuy nhiên, hiện tỷ lệ rác điện tử được tái chế trên thế giới còn rất thấp. Theo tổ chức Greenpeace, chỉ có khoảng 17% lượng máy tính cũ được tái chế; tỷ lệ điện thoại di động cũ hỏng được tái chế còn thấp hơn, chỉ khoảng từ 3-5%. Nói cách khác, tỷ lệ rác điện tử không được tái chế lên tới 83%.

Trước cuộc khủng hoảng rác điện tử đang lan rộng trên toàn thế giới, nhiều tổ chức quốc tế và các quốc gia đã xây dựng các luật và quy định chặt chẽ để đối phó với tình trạng này. Tuy nhiên, để rác điện tử không còn là nỗi ám ảnh đối với các quốc gia trên thế giới, cần có những giải pháp đồng bộ của nhiều bên liên quan.

“Di cư” đến các nước nghèo

Rác điện tử (e-waste) là mối lo ngại lớn trên toàn cầu, đặc biệt khi CNTT ngày càng phát triển và tốc độ ra đời của sản phẩm ngày càng nhanh, số lượng ngày càng lớn.

Máy tính, ti-vi, radio, pin, điện thoại di động, máy ảnh và vô số sản phẩm điện tử khác bị vứt bỏ đều chứa kim loại và hóa chất độc hại như chì, thủy ngân, cadmium, chromium… và các chất làm chậm phân hủy hay FCB. Theo cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ, trong năm 2007, người tiêu dùng Mỹ đã thải ra gần 3 triệu tấn rác điện tử. Hãng Gartner ước tính chỉ riêng các gia đình và công ty Mỹ đã thải ra 156.000 chiếc máy tính mỗi ngày. Chỉ 10-15% số đó được tái chế, số còn lại để trong các gia đình và chất đống trên các bãi rác công cộng, nơi hóa chất độc hại tha hồ rò rỉ.

Trong số rác điện tử được tái chế, có đến 80% được xuất khẩu đến các nước nghèo, “đậu” lại những cửa hàng đồ cũ, nơi những công nhân nghèo phải tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc trong khi chiết xuất kim loại và linh kiện còn có thể sử dụng.

Đáng lo ngại Việt Nam…

Ảnh: Gizmowatch

Những số liệu từ các nhà sản xuất máy tính Việt Nam cho thấy hiện đang có những đợt nhập khẩu các thiết bị CNTT đã qua sử dụng khá ồ ạt. Theo ước tính, mỗi tháng có thể có từ 40-60 container các loại màn hình và máy tính đã qua sử dụng đủ các nhãn hiệu được nhập vào và bán trên thị trường. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1.216 công ty trong nước và 187 công ty có vốn nước ngoài sản xuất phần cứng. Các công ty trong nước chiếm 75% thị trường máy tính cả nước, 80% kim ngạch nhập khẩu linh kiện máy tính theo đường chính ngạch. Tuy nhiên, số lượng thiết bị CNTT đã qua sử dụng được nhập về hằng năm là không thể thống kê được nhưng chắc chắn là một con số lớn.

Các thiết bị CNTT nhập về Việt Nam thường là công nghệ quá cũ, đã qua sử dụng từ một đến vài năm được thu hồi từ các công sở, trường học, thậm chí cả bãi rác hoặc cũng có thể là những hàng bị lỗi trong quá trình sản xuất đáng lẽ phải hủy bỏ. Những hàng này được “tút”’ lại và đóng thùng tại Việt Nam. Chúng thường được bán với giá rẻ nhưng không được bảo hành. Trung bình chỉ có 300.000 đồng một màn hình cũ hay 1,9 triệu đồng một bộ máy tính đã qua sử dụng.

Nguyên nhân: Thiếu hiểu biết và nghèo?

Tại Việt Nam, trong khoảng mười năm gần đây, lượng máy tính đã qua sử dụng được nhập khẩu ngày càng tăng dần. Bên cạnh tác động tích cực là tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên và những người có thu nhập thấp tiếp cận với CNTT, thì rất cần chú ý đến những tác hại của rác điện tử.

Cho đến nay, số lượng máy quá cũ, không thể nâng cấp hoặc sửa chữa để tiếp tục sử dụng là rất lớn. Chúng thường được một số nhà buôn phế liệu mua về tháo gỡ, phân thành ba loại: nhựa, sắt và những linh kiện điện tử. Sau đó, sắt và nhựa được bán lại cho các cơ sở tái chế, còn những chi tiết điện tử khác như RAM, ổ cứng, bo mạch, bộ nguồn... thì được thợ điện tử, máy tính nhặt nhạnh để tận dụng.

Ở TP.HCM, quanh chợ Nhật Tảo, quận 10, hiện có nhiều cơ sở chuyên mua bán loại phế liệu này và thỉnh thoảng lại có một đợt hàng được những người chuyên thu gom phế liệu trong thành phố “đổ” xuống. Sau khi được phân loại, số phế liệu không thể bán được sẽ theo các xe chở rác đô thị đưa đến các bãi rác.

Tuy chưa có những “làng nghề” chuyên tái chế rác điện tử gây ô nhiễm rõ rệt cho sức khỏe dân chúng và môi trường, dẫn đến sự bùng phát hàng loạt hậu quả nghiêm trọng cho môi sinh như ở một số quốc gia châu Á, song đã đến lúc, chúng ta cần dành cho loại rác đặc biệt này sự quan tâm cần thiết. Thực tế ở một số địa phương của Trung Quốc và Ấn Độ cho thấy, chính quyền đã không buông lỏng quản lý việc nhập và xử lý rác điện tử

Các doanh nghiệp nhập khẩu đặt lợi nhuận lên trên hết. Mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp là lợi nhuận nên để có lợi nhuận, họ đã bằng mọi cách nhập vào trong nước cả những thứ mà họ biết chắc là bị cấm.

Pháp luật chưa đủ sức răn đe. Mức xử phạt theo Nghị định 138/NĐ-CP là 70 triệu đồng cho một lần vi phạm là mức phạt cao nhất, nhưng trên thực tế nhiều doanh nghiệp không bị xử phạt ở mức này. Mức xử phạt như trên là tương đối nhẹ, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm. Thực tế đã chứng minh, thời gian qua mặc dù đã có nhiều cảnh báo, nhưng doanh nghiệp vẫn núp dưới nhiều hình thức để nhập rác về như nhập phế liệu cho sản xuất, tái chế để tái xuất. Vì vậy, Nhà nước cần có chế tài xử phạt mạnh hơn mới đủ sức răn đe.

Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa tốt. Cơ chế phối hợp giữa các ngành chức năng cũng còn có “lỗ hổng”, nhiều khi còn “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” đã làm hiệu quả của việc giám sát, thực thi pháp luật chưa cao.

Giải pháp nào?

Phát triển luật về rác thải điện tử. Để đối phó với cuộc khủng hoảng rác điện tử trên thế giới, các tổ chức quốc tế và từng quốc gia đã đề ra những quy định bắt buộc về nhập khẩu, quản lý và xử lý rác độc hại.

Chúng ta cần có chỉ thị quy định về rác điện tử và chỉ thị quy định việc giới hạn sử dụng những chất độc hại. Các văn bản này cần buộc nhà sản xuất phải thu gom sản phẩm đã qua sử dụng và giảm sử dụng chất độc hại (chì, thủy ngân, cadmium, chromium hóa trị 6, PBB và PBDE) trong sản phẩm.

Nhà nước và các ban ngành chức năng nên có biện pháp ngăn chặn tình hình nhập khẩu thiết bị CNTT đã qua sử dụng và có những chính sách phát triển cho ngành sản xuất phần cứng ở Việt Nam. Cụ thể là cấm nhập tiểu ngạch các mặt hàng này, kiểm tra kỹ C/O trong lúc làm thủ tục nhập khẩu tại hải quan; cấm nhập linh kiện máy tính đã qua sử dụng; kiểm tra việc tạm nhập tái xuất các lô hàng...

Pháp luật Việt Nam quy định là hải quan làm nhiệm vụ kiểm soát hàng hóa, khi nào có yêu cầu phối hợp, Cục Bảo vệ môi trường mới vào cuộc, mà thường là xử lý khi “sự đã rồi” (các lô hàng phế thải đã vào Việt Nam chứ không cản được chúng khi chưa vào lãnh thổ) nên hạn chế đáng kể hiệu quả phòng chống, phát sinh chi phí xử lý, tiêu hủy. Chất phế thải là hàng cấm đã nhập về thì không có chuyện xin phép, hay phạt rồi cho phép nhập khẩu mà phải buộc xuất ra khỏi Việt Nam và trả về nước xuất khẩu.

Gắn trách nhiệm vào nhà sản xuất thiết bị CNTT trong nước. Một trong những giải pháp giúp giải quyết tận gốc vấn đề rác điện tử là gắn trách nhiệm vào nhà sản xuất. Các chuyên gia cho rằng việc gắn trách nhiệm cho nhà sản xuất sẽ mang lại hai lợi ích. Thứ nhất, các nhà sản xuất sẽ đưa chi phí quản lý rác vào giá thành sản phẩm. Cách làm này sẽ thúc đẩy họ thay đổi thiết kế sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường hơn và kéo dài vòng đời của sản phẩm. Chẳng hạn, thay vì thiết kế một chiếc ti-vi hay máy tính chỉ sử dụng được trong ba năm, nhà sản xuất sẽ phải thiết kế chúng có độ bền gấp đôi. Như thế, họ sẽ đỡ mất công sức và tiền bạc cho việc tái chế rác điện tử.

Ngày nay, ngoài tái chế, loại bỏ những hóa chất độc hại, ngày càng có nhiều công ty sản xuất ra những sản phẩm dùng những chất liệu thân thiện với môi trường và kinh tế, giảm thải carbon, ngăn ngừa hiện tượng ấm lên của toàn cầu.

Cần có nhận thức đúng từ phía người sử dụng. Luật pháp dù có chặt chẽ tới đâu cũng không giúp giải quyết triệt để vấn đề rác điện tử nếu thiếu sự nhận thức đúng đắn của công chúng. Khi nhận thức đúng đắn, cộng đồng sẽ có thái độ phản đối việc nhập khẩu rác CNTT bằng cách tránh mua sản phẩm đã qua sử dụng. Người dân sẽ có ý thức tốt hơn trong việc thu gom rác CNTT. Cần hiểu rằng những mặt tích cực của cuộc sống hiện đại chỉ mang đầy đủ ý nghĩa nếu chúng không phải trả giá bằng sự thiệt hại về môi trường.

Về phần mình, chính người tiêu dùng cũng có thể góp phần giảm thiểu lượng rác điện tử bằng cách lựa chọn các sản phẩm của các công ty có hỗ trợ tái chế rác. Khi muốn vứt bỏ các loại phế phẩm điện tử, người sử dụng cần để chúng vào đúng nơi quy định.

Tóm lại, tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm thực hiện phần việc của mình trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng rác điện tử phù hợp với vai trò, vị trí của mình.


quantrimang

Ý kiến bạn đọc


Cùng chuyên mục

Để cam sành ra quả trái mùa
HGĐT- Cam sành là cây trồng mang tính đặc sản của tỉnh ta; diện tích cam phân bố chủ yếu ở 3 huyện: Vị Xuyên, Bắc Quang và Quang Bình. Nếu để cho cây sinh trưởng tự nhiên, thì cam thường cho hoa từ tháng 1, 2 âm lịch và cho thu hoạch từ tháng 11, 12 âm lịch.
29/09/2008
Phục tráng giống lúa Nếp cái hoa vàng ở xã Quảng Nguyên
HGĐT- Nếp cái hoa vàng là giống nếp quý hiếm, hạt tròn, trắng và thơm ngon của bà con người Tày và người Nùng, chỉ có ở xã Quảng Nguyên, huyện Xín Mần, đã và đang được người tiêu dùng trong huyện, tỉnhbiết đến, bởi giá trị và chất lượng của loại gạo đặc sản địa phương này.
29/09/2008
Nhân lực CNTT: Yếu do chương trình đào tạo
Trong những năm gần đây, mặc dù số lượng cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT) cũng như chỉ tiêu tuyển sinh trên toàn quốc ngành CNTT-TT tăng lên rất nhanh nhưng chất lượng đào tạo vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
29/09/2008
Đề tài ứng dụng chế phẩm kivica trên cây cam sành - kết quả bước đầu
HGĐT- Tỉnh ta có 4.078,4 ha cam, quýt và được trồng tập trung ở các huyện Quang Bình, Bắc Quang và Vị Xuyên. Trong đó, diện tích cho thu hoạch là 2.637,7 ha, chủ yếu là Cam Sành, sản lượng quả hàng năm đạt gần 20 nghìn tấn. Trong những năm qua, cây cam có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển KT - XH, XĐGN ở địa phương.
26/09/2008