Báo Hà Giang điện tử
.

“Cây Nghị quyết” mang "Ý Đảng - Lòng dân"

10:25, 21/02/2023
 

Đưa cuộc sống của người dân vào nghị quyết của Đảng, đảm bảo sự thống nhất về ý chí và hành động; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc; nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình triển khai nên sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết 05 của BCH Đảng bộ tỉnh về "Cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2021 - 2025" đã cho thấy Nghị quyết 05 thực sự hợp “ý Đảng – lòng dân”, giúp đánh thức hàng nghìn mảnh vườn tạp bị “ngủ quên” để vươn mình đơm hoa, kết trái, mang lại ấm no cho đồng bào biên cương cực Bắc.

 

Bám sát thực tiễn đời sống người dân để xây dựng nghị quyết; giữ vững vai trò Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ là cách làm được Đảng bộ tỉnh triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt. Từ thực tiễn tỉnh ta là tỉnh nông nghiệp với khoảng 86% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn; do đặc thù điều kiện tự nhiên, khí hậu nên quy mô, diện tích vườn hộ có sự khác biệt giữa các vùng; cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhiều chủng loại, nhưng giá trị kinh tế không cao; tập quán canh tác của đồng bào dân tộc mỗi vùng có nét riêng; giá trị thu nhập từ kinh tế vườn thấp.

Thực tế cho thấy, kinh tế vườn hộ chưa được phát huy, vườn còn nhiều cây tạp; việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa hợp lý; tập quán canh tác truyền thống, năng suất thấp nhưng chưa được lãnh đạo, chỉ đạo, chưa chú trọng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp nên giá trị kinh tế từ vườn hộ thấp, chưa tạo thu nhập bền vững cho người dân. Riêng 4 huyện vùng Cao nguyên đá có tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo lớn; điều kiện canh tác gặp nhiều khó khăn; quy mô diện tích vườn hộ nhỏ, thiếu đất…

Vườn tạp của người dân thôn Nà Trà, xã Linh Hồ (Vị Xuyên) khi chưa cải tạo

Trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, BCH Đảng bộ tỉnh xác định: Khi áp dụng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, cùng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào diện tích vườn hộ sẽ đem lại thêm nguồn thu nhập ổn định cũng như đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày của hộ dân một cách bền vững. Do đó, ngày 1.12.2020, BCH Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết 05 về “Cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2021-2025”. Đây là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng, triển khai cụ thể khâu đột phá của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 về “Tạo sinh kế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân”.

Đồng thời, BCH Đảng bộ tỉnh xác định rõ quan điểm cải tạo vườn tạp “không nóng vội, không thành tích, dễ làm trước, khó làm sau”; mục tiêu cốt lõi là thay đổi tư duy và phương pháp chăn nuôi, trồng trọt của người dân trên chính mảnh đất vườn của mình, từ đó tăng dinh dưỡng, tạo sinh kế, tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững. Thay đổi nhận thức, phong tục, thói quen tập quán, chuyển đổi canh tác từ cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế thấp sang cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến thôn, tổ dân phố phải vào cuộc phụ trách, giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo cải tạo vườn tạp và hướng dẫn, chuyển giao khoa học công nghệ.

Bí thư Tỉnh uỷ Đặng Quốc Khánh và lãnh đạo các sở, ngành thăm mô hình cải tạo vườn tạp tại xã Cán Tỷ (Quản Bạ)

Để cụ thể hóa Nghị quyết 05 về cải tạo vườn tạp, UBND tỉnh xây dựng, ban hành Đề án triển khai một cách cụ thể; HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 58, ngày 9.12.2020 về chính sách đặc thù phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây cam Sành, giai đoạn 2021-2025; các ngành liên quan và các huyện, thành phố tới các xã, thị trấn đều tập trung xây dựng kế hoạch thực hiện, bám sát đối tượng và điều kiện thực tiễn để triển khai hiệu quả.

 

Thực chất lâu nay, những mảnh vườn tạp chỉ được người dân trồng một số loại cây phục vụ sinh hoạt gia đình, thậm chí để cỏ hoang mọc dại. Nhận diện rõ vấn đề, Nghị quyết 05 về cải tạo vườn tạp ra đời không chỉ được ví như đã thổi một luồng “sinh khí mới” vào đời sống người dân khi đã mách đường, chỉ lối cho người dân vươn lên thoát nghèo mà còn “cải tạo tư duy”, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng theo phương thức “cầm tay chỉ việc”.

Qua việc triển khai cải tạo vườn tạp cho thấy, đây là cách làm mới chưa từng được triển khai theo một cách bài bản, thống nhất từ tỉnh đến xã, thôn như hiện nay. Với sự chung tay, góp sức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người dân; đặc biệt là quy hoạch lại vườn một cách phù hợp, có bản đồ từng khu vực, diện tích xây dựng hạ tầng; lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao; tận dụng và phát huy tối đa diện tích đất sản xuất phù hợp với điều kiện nhân lực mỗi gia đình; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để sản phẩm có năng suất, chất lượng tốt; liên kết giữa các hộ, nhóm hộ, địa phương để tạo ra vùng trồng các sản phẩm đủ lớn thành hàng hóa, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với thị trường, hướng đến liên kết, cung cấp cho các hợp tác xã, doanh nghiệp chế biến… đã giúp không ít gia đình có việc làm ổn định, nhất là giải quyết việc làm cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, thiếu việc làm. Mặt khác, tác động lớn đến tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất; tiêu chí môi trường trong việc tổ chức thực hiện xây dựng Nông thôn mới.

 

Nhằm tạo sự đồng bộ, quyết liệt ngay từ khi bắt tay thực hiện, UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, tổ chức trị - xã hội, các huyện, thành phố tổ chức tuyên truyền chính sách hỗ trợ đến các hộ nghèo, cận nghèo để cải tạo vườn tạp; 11/11 huyện, thành phố tổ chức lễ phát động ra quân cải tạo vườn tạp; phân bổ nguồn kinh phí triển khai thực hiện chính sách. Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện hợp đồng ủy thác quản lý, sử dụng nguồn vốn và giao chỉ tiêu cho các Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện, thành phố triển khai cho vay. Tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, vận động, tham gia hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo, cận nghèo thực hiện cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ của địa phương. Kiểm tra tiến độ triển khai cải tạo vườn tạp và đôn đốc, duy trì các hộ đã thực hiện đảm bảo đạt các tiêu chí và cho hiệu quả kinh tế.

Các tổ chức chính trị - xã hội chung tay giúp người dân cải tạo vườn tạp

Các huyện, thành phố chủ động xây dựng, triển khai kế hoạch và thành lập Ban chỉ đạo, xây dựng quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên Ban chỉ đạo phụ trách, giúp đỡ các hộ cải tạo vườn tạp; thành lập tổ thẩm định, hướng dẫn, tư vấn, xây dựng phương án sản xuất và phê duyệt danh sách các hộ để tổ chức thực hiện. Vận động cán bộ, công chức, viên chức, bí thư chi bộ, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, người có uy tín có vườn tạp tham gia cải tạo vườn, chỉnh trang vườn hộ làm gương cho nhân dân học tập. Đánh giá chất lượng vườn hộ thực hiện cải tạo từ khi triển khai đến nay.

Trong 2 năm triển khai, các địa phương, đơn vị đa dạng hóa hình thức tuyên truyền; lồng ghép qua các cuộc họp giao ban, họp chi bộ, họp thôn với gần 5.800 buổi, trên 320 nghìn lượt người tham gia. Mặt khác, đào tạo, tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật 368 lớp với trên 14 nghìn lượt cán bộ nông nghiệp xã, đoàn thành niên, phụ nữ và các hộ thực hiện cải tạo vườn tạp. Căn cứ theo tình hình thực tế, nội dung tập huấn tập trung vào quy trình trồng rau, đậu các loại, chăn nuôi gia súc, gia cầm; phổ biến cơ chế, chính sách về cải tạo vườn tạp; hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật cho người dân; cách thức quy hoạch, bố trí không gian vườn hộ; bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tư vấn kỹ thuật, lựa chọn cây trồng phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu; khả năng đầu tư của gia đình; ghi chép sổ nhật ký theo dõi sản xuất của hộ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi an toàn và hiệu quả…

 

Đưa cuộc sống của người dân vào nghị quyết là cách làm đúng đắn nhưng để nghị quyết đi vào cuộc sống là một “bài toán” không dễ khi lâu nay không ít hộ nghèo còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa có ý thức chủ động vươn lên thoát nghèo; nhất là tập quán canh tác truyền thống đã “bám rễ” trong tư duy sản xuất của người nông dân. Để giải quyết tình trạng đó, các địa phương trong tỉnh triển khai Nghị quyết 05 theo phương thức cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên gương mẫu đi đầu để người dân học tập, làm theo.

Đảng viên Lầu Chứ Tủa (ngoài cùng bên phải) thôn Sủng Cáng, xã Sủng Trà (Mèo Vạc) cải tạo nương tạp sang trồng cây Đương Quy mang lại thu nhập ổn định

Vị Xuyên là một trong những địa phương chủ lực của tỉnh về phát triển nông nghiệp và cũng là huyện đầu tiên thực hiện Nghị quyết 05 về cải tạo vườn tạp. Bám sát chỉ đạo của tỉnh để cụ thể hóa vào tình hình thực tiễn, Vị Xuyên coi cải tạo vườn tạp là việc làm thường xuyên và có quyết tâm, quyết liệt trong tổ chức thực hiện. Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên Đỗ Anh Tuấn cho biết: Địa phương đã xây dựng kế hoạch và chương trình hành động cụ thể; xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp; phân công các tổ chức Đảng, các Chi, Đảng bộ và thành viên Ban chỉ đạo cải tạo vườn tạp huyện phụ trách từng nội dung công việc, địa bàn để chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện.

Mặt khác, huyện xây dựng tài liệu, in pa-nô, áp phích treo tại trụ sở thôn, xã tuyên truyền về nghị quyết với tài liệu ngắn gọn để các cấp và mọi tầng lớp nhân dân dễ hiểu, dễ thực hiện. Chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tiên phong, gương mẫu, đảm bảo 100% cán bộ, công chức, viên chức cấp xã khu vực nông thôn có vườn thực hiện cải tạo, chỉnh trang vườn theo hướng sạch đẹp, trồng các loại cây trồng phù hợp để vừa tăng thu nhập, vừa rút kinh nghiệm để hướng dẫn, hỗ trợ người dân cải tạo vườn tạp. Đồng thời, thay đổi tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tạo sự lan tỏa và hiệu quả trong quá trình triển khai.

 

Linh Hồ là xã đầu tiên của huyện Vị Xuyên và của tỉnh thực hiện cải tạo vườn tạp. Xác định những hộ tham gia là nông dân nghèo, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất nên việc định hướng cho các hộ tổ chức lại sản xuất hiệu quả được cấp ủy, chính quyền xã thực hiện theo phương thức yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn các hộ nghèo, cận nghèo sắp xếp lại vườn một cách khoa học, quy củ theo cách thức “cầm tay chỉ việc”.

Gia đình anh Lý Văn Thu, thôn Nà Trà, xã Linh Hồ mạnh dạn đi đầu tham gia cải tạo vườn của gia đình. Mặc dù có tới hàng chục nghìn m2 đất nhưng hầu như bỏ hoang do kinh tế khó khăn và không biết trồng cây gì, nuôi con gì. Anh Thu chia sẻ: Được cán bộ khuyến nông hướng dẫn nên gia đình cải tạo vườn để trồng 400 gốc bưởi da xanh và trồng xen canh thêm ngô, lạc trên cùng đơn vị diện tích để lấy lương thực; từ nguồn vốn vay hỗ trợ, gia đình chăn nuôi thêm gà, lợn và trồng cỏ nuôi hươu sao. Sau một thời gian ngắn, cuộc sống gia đình đã bớt khó khăn, yên tâm sản xuất.

Cán bộ khuyến nông hướng dẫn cách chăm sóc cây bưởi cho gia đình anh Lý Văn Thu, thôn Nà Trà, xã Linh Hồ (Vị Xuyên)
 
 

Qua thực tế triển khai cho thấy, số vườn đăng ký thực hiện nhiều nhưng chất lượng vườn chưa cao; việc tư vấn, định hướng ở một số địa phương, cơ sở cho các hộ thực hiện chưa hợp lý, chưa đúng đối tượng. Công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát chưa duy trì thường xuyên, liên tục. Diện tích cải tạo vườn tạp của gia đình quá lớn nên kinh phí vay vốn để đầu tư cải tạo vườn dàn trải, không tập trung nên chất lượng vườn cải tạo chưa đảm bảo, hiệu quả kinh tế thấp. Việc triển khai kế hoạch của một số huyện, thành phố chậm, công tác thẩm định, giải ngân không đảm bảo. Một số địa phương danh sách hộ đăng ký thay đổi, điều chỉnh, bổ sung, thay đổi ý định vay vốn, không đảm bảo diện tích, nhân lực, lao động không có dẫn đến chậm tiến độ giải ngân. Không ít địa phương còn “chạy” theo số lượng, chưa chú trọng đến chất lượng cải tạo vườn tạp…

Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) đã chỉ ra “mắc bệnh thành tích” là một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên và tổ chức Đảng. Mặt khác, Bí thư Tỉnh ủy Đặng Quốc Khánh đã nhiều lần nêu rõ: “Cần lấy hiệu quả công việc, lấy sản phẩm làm thước đo đánh giá cán bộ”. Vì vậy, triển khai Nghị quyết 05 về cải tạo vườn tạp được tỉnh ta chỉ đạo cụ thể “làm đến đâu chắc đến đó” và đảm bảo thực chất, không chạy theo thành tích.

Nương tạp được bồi đất trồng rau giúp người dân xã Sủng Máng có cuộc sống ấm no.

Mục tiêu Nghị quyết 05 đặt ra đến năm 2025 cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn có thu nhập khá cho 6.500 hộ (tương đương 6.500 vườn). Chỉ sau 2 năm triển khai, tổng số hộ thực hiện 5.400 hộ với tổng số diện tích vườn cải tạo trên 241 ha, vượt 192% so với chỉ tiêu giao cho cả giai đoạn 2021 – 2025 tại Đề án Cải tạo vườn tạp của UBND tỉnh; trong đó, số hộ được vay vốn theo Nghị quyết số 58 HĐND tỉnh là 2.325 hộ; số hộ không vay vốn theo Nghị quyết số 58 là 3.075 hộ. Tổng kinh phí thực hiện hỗ trợ cải tạo vườn tạp 2 năm trên 78,2 tỷ đồng; trong đó, ngân sách tỉnh bố trí thực hiện trên 73,1 tỷ đồng; xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân trên 5 tỷ đồng.

Giống như các địa phương khác trong toàn tỉnh, để tránh chạy theo thành tích, năm 2022, huyện Vị Xuyên đăng ký cải tạo vườn tạp 232 hộ, nhưng huyện đã rà soát kỹ lưỡng cùng với đánh giá sự quyết tâm thực hiện của các hộ nên chỉ lựa chọn 216 hộ thực hiện. Để tạo sự lan tỏa, huyện bố trí nguồn sự nghiệp nông nghiệp hỗ trợ từ 2 – 4 triệu đồng cho 73 hộ có mức sống trung bình trở lên, có diện tích vườn lớn nhằm thực hiện cải tạo vườn tạp, tạo ra mô hình điểm để các gia đình trên địa bàn thôn, xã học tập. Đồng thời, xây dựng chuỗi liên kết trong quá trình sản xuất giúp bảo đảm tính bền vững cho người nông dân.

 

Để những mảnh vườn tạp thực sự “hồi sinh” và có thể giúp người dân từng bước vươn lên thoát nghèo từ chính mảnh vườn của gia đình, các hộ cải tạo vườn theo hình thức “lấy ngắn nuôi dài”, bảo đảm thu nhập thường xuyên. Từ nguồn vốn hỗ trợ, các hộ chủ yếu mua giống và cải tạo vườn để trồng các loại rau, củ quả ngắn ngày; trồng cây dược liệu; cải tạo phát triển chăn nuôi lợn, dê, gia cầm; cải tạo nuôi trồng thuỷ sản giống cá trắm, chép, rô phi. Các địa phương vùng cao núi đá thực hiện xếp đá, đổ đất tạo vườn gắn với cải tạo vườn tạp; một số huyện cải tạo cây ăn quả và cây trồng khác.

Nằm ở cửa ngõ Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, do điều kiện tự nhiên chủ yếu núi đá, huyện Quản Bạ chủ động chỉ đạo quyết liệt việc cải tạo, mở rộng diện tích đất canh tác bằng phương pháp bù đất lấp đá; thực hiện thí điểm và có cơ chế hỗ trợ riêng ngoài hỗ trợ theo Nghị quyết 58 của HĐND tỉnh tại một số thôn, xóm; lựa chọn thí điểm thôn Lùng Mười, xã Quyết Tiến xây dựng khu dân cư kiểu mẫu, gắn thực hiện cải tạo vườn tạp với chỉnh trang đường làng, ngõ xóm.

Từ việc bồi đất tạo nương đến phát triển chăn nuôi... đều được người dân các địa phương linh hoạt trong quá trình sử dụng nguồn vốn cải tạo vườn tạp

Một số địa phương trong tỉnh vận dụng linh hoạt, có nhiều sáng kiến, cách làm hay, như huyện Vị Xuyên, Bắc Quang xây dựng thêm các tiêu chí phù hợp với thực tế; Hoàng Su Phì áp dụng biện pháp che phủ ni-lon cho cây ngô; Quản Bạ, Bắc Mê lập nhóm thông tin qua mạng xã hội zalo để trao đổi thông tin hàng ngày, xếp đá, đổ đất, triển khai hình thức đầu tư có thu hồi; ở một số xã, các trường học hợp đồng bao tiêu sản phẩm rau; huyện Mèo Vạc, Đồng Văn thực hiện xếp đá, đổ đất để trồng cây ăn quả, chăn nuôi, huy động được lực lượng cán bộ và nhân dân tích cực tham gia giúp đỡ các hộ cải tạo vườn tạp…

Để thúc đẩy sản xuất, các huyện triển khai liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như: Bắc Quang liên kết với một số công ty, hợp tác xã nông nghiệp hỗ trợ giống, chuyển giao kỹ thuật và bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê liên kết trồng ngô sinh khối. Đồng Văn các hợp tác xã, tổ hợp tác cam kết thu mua sản phẩm rau sạch chuyên canh tại 9 xã, thị trấn; trồng cây ăn quả tập trung gắn với du lịch nông nghiệp; phối hợp các cơ quan thực hiện làm Giấy chứng nhận sản phẩm rau sạch, thực phẩm sạch, mã QR đối với một số sản phẩm đặc trưng, các sản phẩm đạt OCOP. Xín Mần liên kết với công ty và phối hợp với các hộ cải tạo vườn tạp trồng 8,5 ha giống bắp cải, rau súp lơ, cà rốt trái vụ và mở rộng trồng kiệu, củ cải, gừng trâu, tạo vùng nguyên liệu xuất khẩu sang Nhật Bản; các xã, thị trấn chủ động liên kết với các công ty, hợp tác xã, ký kết với các đơn vị trường học trên địa bàn tiêu thụ rau, thực phẩm lợn, gia cầm, thủy sản từ cải tạo vườn tạp cho nhân dân…

 

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thường xuyên; sự vào cuộc quyết tâm, quyết liệt của các ngành, địa phương; sự đồng tình, ủng hộ của người dân đã giúp đất cằn “nhả ngọc”; những mảnh vườn đầy cỏ dại hôm nào nay được phủ đầy màu xanh no ấm.

Sau 2 năm thực hiện, qua theo dõi, đánh giá 2.325 vườn (hộ) thực hiện theo Nghị quyết 58 HĐND tỉnh, có là 1.734 vườn đạt 4/4 tiêu chí; số vườn đạt 3/4 tiêu chí có 443 vườn; số vườn đạt 2/4 tiêu chí 139 vườn và 9 vườn chưa đạt. Tổng số có 1.935 vườn (hộ) đã cho hiệu quả kinh tế với tổng thu nhập trên 36,3 tỷ đồng, bình quân 18,8 triệu đồng/hộ/năm và bình quân 1,56 triệu đồng/hộ/tháng, cao gấp 2-3 lần so với trước thời điểm chưa thực hiện cải tạo vườn tạp.

Điển hình như gia đình ông Hoàng Thế Diễn, thôn Nà Tiềng, xã Niêm Sơn (Mèo Vạc) đã vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no từ chính mảnh vườn của gia đình. Ông Diễn cho biết: Trước đây diện tích vườn của gia đình gần như bỏ hoang, chỉ trồng một số loại cây phục vụ sinh hoạt gia đình; khi tham gia cải tạo, được hướng dẫn và vay vốn đã giúp gia đình chuyển đổi trồng 2 vụ bắp cải và trồng thêm mướp, bí xanh, rau đậu; các trường học trên địa bàn tiêu thụ sản phẩm nên một năm thu nhập gần 100 triệu đồng, giúp gia đình có cuộc sống ổn định.

 

Có thể khẳng định, nhờ cải tạo vườn tạp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất đã khẳng định tính thiết thực, đúng đắn của Nghị quyết 05. Qua đó, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp hiện đại, tăng thu nhập cho nông dân và xây dựng Nông thôn mới ở các địa phương. Có 2.325 lao động được giải quyết việc làm ổn định (bình quân mỗi hộ có 1 người được giải quyết việc làm ổn định, đặc biệt đây là các hộ nghèo, cận nghèo yếu thế, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, không có việc làm ổn định). Nghị quyết đi vào đời sống nhân dân, làm thay đổi đáng kể nhận thức của người dân; không gian sinh sống của gia đình được sắp xếp lại hợp lý, khoa học, ngăn nắp, thuận lợi cho sinh hoạt; thôn xóm thêm sạch, đẹp; thay đổi mạnh mẽ bộ mặt vùng nông thôn miền núi của tỉnh.

Những mảnh vườn tạp nay đã cho "trái ngọt", giúp người dân có cuộc sống ấm no

Điều thay đổi lớn nhất, tạo nền tảng có sự phát triển chính là người dân dần thay đổi nhận thức về tập quán sản xuất từ tự cung, tự cấp sang tư duy sản xuất hàng hóa gắn với liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao hệ số sử dụng đất, không để đất bỏ hoang; tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, tạo ra những hướng đi tiềm năng, mang lại hiệu quả kinh tế, giảm nghèo bền vững. Nhiều hộ nghèo cải tạo vườn tạp đã giải quyết được nguồn cung cấp thực phẩm xanh cho gia đình, cải thiện dinh dưỡng bữa ăn hàng ngày, đời sống từng bước thay đổi rõ rệt. Mặt khác, Nghị quyết tác động lớn đến tiêu chí quy hoạch; kinh tế và tổ chức sản xuất; góp phần cải thiện môi trường sinh thái, môi trường đất sản xuất, tăng độ che phủ, tạo môi trường xanh, sạch, đẹp và bảo vệ sức khỏe của người dân.

 

Bằng việc coi trọng nhân dân, quan tâm chăm lo đời sống nhân dân, “lấy dân làm gốc”, làm chủ thể trong triển khai cho thấy Nghị quyết 05 của BCH Đảng bộ tỉnh về cải tạo vườn tạp thực sự là Nghị quyết mang “ý Đảng – lòng dân”. Với sự chung tay, góp sức của cán bộ, đảng viên, cả hệ thống chính trị và người dân đã tăng cường gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Đồng thời, khẳng định khi lý luận gắn chặt với thực tiễn và khi Đảng vì dân, dân tin Đảng đang giúp cho mảnh đất địa đầu Tổ quốc vươn mình, giữ vững vai trò phên giậu vững chắc nơi biên cương cực Bắc.

Kim Tiến (thực hiện)


Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp